Tuesday, December 13, 2011

Bàn về việc "Học"



bởi Anh Duy Nhất vào ngày 29 tháng 11 2010 lúc 1:27 sáng


Tất cả những gì chúng ta cần là xác định sẽ mất gì để học những điều nên học rồi sau đó là học nó.

Mỗi người phải tự học và rèn rũa các tính cách của nhà lãnh đạo.
Các kinh nghiệm với lãnh đạo rất quan trọng, nó hình thành nên tính cách của nhà lãnh đạo

Chúng ta cần xác định sẽ mất điều gì để học những điều nên học rồi sau đó là học nó.

Có 2 nguyên lý của quá trình học từ trước tới giờ là :

+ Học theo sách vở
+ Học theo tình huống

Cả 2 cách học này đều không hoàn toàn mang ý nghĩ của việc học.Bạn quên rằng cần phải lắng nghe con người bên trong bạn để xác định mình nên học điều gì nữa..

Bất cứ ai chỉ dựa vào học theo sách vở hoặc tình huống thì chắc chắn họ chỉ đang diễn lại vai trò của người đi trước chứ không phải sống một cuộc đời của chính họ.

Vậy cách học sáng tạo gồm :

+ Dự đoán tương lai : Hãy chủ động và giàu trí tưởng tượng trước những tình huống có thể xảy ra hơn là thụ động và làm theo thói quen

+ Học bằng cách lắng nghe người khác : Quan sát và lắng nghe

+ Trực tiếp tham gia quá trình học hỏi đó : Tạo cơ hội chứ không thụ động chờ cơ hội

Trước tiên hãy xác định bạn muốn đi về đâu. Sau đó, hãy xác định cách bạn tiến hành là gì. Nếu trước kia, chưa ai làm như bạn thì bạn phải tự mình nghĩ ra cách của riêng bạn. Bạn phải duy trì một mức độ linh hoạt trong việc tổ chức sắp xếp những người cùng đi với bạn. Và bạn cũng phải biết ngay từ đầu là bạn sẽ mang bao nhiêu hành lý mới có thể đến đích”

Trong cuốn  "Giáo dục các nhà quản lý" Smith đã viết như sau:

"Khả năng suy luận dựa vào nền tảng những thành công đạt được trong quá khứ,khả năng tổ chức  và tái tổ chức hoạt động  và khả năng hình dung ra cách thức và biện pháp có thể thay đổi tình thế Khi sinh viên được huấn luyện để nhận thức chủ đề chung và những yếu tố có tính chu kỳ trong nghệ thuật, văn chương, lịch sử, họ đang học về cách sáng tạo để hình thành nên những giải pháp dài hạn trước những vấn đề sau này trong kinh doanh."

Rút ngắn khoảng cách: Nếu bạn muốn một lời khuyên thì đây, hãy tăng tốc độ đọc sách lên. Không nên để tham vọng của mình cản đường việc rèn luyện tri thức.

Ý nghĩa thực sự của việc học là đây - Chủ động, đầy nhiệt huyết và hoàn toàn mang tính cá nhân. Bạn đọc điều gì thì điều đó phải có ích cho chính bạn và chính bạn phải biến kiến thức đó thành sở hữu của chính mình

Mở rộng kinh nghiệm sống

Đi du lịch khắp nơi là một hình thức học hỏi khác.
Đi du lịch khắp nơi khiến  bạn thay đổi định hướng ngay lập tức bởi vì mỗi nơi khác nhau, phản hồi của bạn cũng mới mẻ khác nhau.

Nhất định bạn phải có chốn riêng tư để tìm về vào bất cứ lúc nào hay bất cứ một ngày nào trong tuần. Ở đó, bạn không nhớ đến thông tin gì về thời sự, về bạn bè,bạn nợ ai hay ai nợ bạn... Tại chốn này, đơn giản bản có thể chiêm nghiệm và suy nghĩ về bản thân và con người bạn thực sự muốn trở thành. Đây là nơi phôi thai của những sáng tạo. Khi chạm đến tâm hồn, trí tưởng tượng và suy ngẫm về những kinh nghiệm thì họ mới học hỏi được và trở nên tươi mới, tỏa sáng

Bạn bè và người hướng dẫn đi trước có kinh nghiệm

+ Bạn bè thân nơi bạn có thể chia sẻ và ủng hộ, tin tưởng bạn
+ Những người cùng chí hướng, đam mê
+ Những người thầy trong cuộc sống, những người đi trước.
+ Những người thầy trong sách vở

Học từ trong nghịch cảnh

Rõ ràng khi chúng ta không chấp nhận rủi ra là mình sẽ nói hay làm gì sai, khả năng sáng tạo của chúng ta sẽ chết dần.

Hãy cùng nhìn lại những sai lầm và đưa ra giải pháp hay học hỏi từ những kinh nghiệm

+ Nhìn lại kinh nghiệm từ thời niên thiếu và sử dụng chúng giúp cho chính mình ở hiện tại
+ Luôn ý thức tìm kiếm những kinh nghiệm trong hiện tại để tiến bộ và mở rộng tầm nhìn
+ Dĩ nhiên là phải chấp nhận rủi ro

- Warren Bennis -


Thursday, December 8, 2011

Những bài học quản lý từ Đức Đạt lai Lạt ma


Dưới đây chúng tôi xin trích lọc một số giáo lý về người lãnh đạo đã được Đức Đạt lai Lạt ma đưa vào cuốn The Leader’s Way cũng như những bài thuyết giảng và những “tweets” của ngài.

Tháng 9, Đức Đạt lai Lạt ma – vị lãnh tụ tinh thần 76 tuổi đang lưu vong của Tây Tạng – đưa ra tuyên bố về kế hoạch đầu thai của ngài – người được đầu thai sẽ là người kế nhiệm của ngài – cũng như nêu “chiến lược” dài hạn cho sự nghiệp thần thánh của mình.

Lời tuyên bố của Đức Đạt lai Lạt ma, người vốn chỉ chuyên tâm thuyết giảng về lòng trắc ẩn và hòa bình mà hiếm khi bày tỏ thẳng những triết lý về doanh nghiệp, nghe sao giống như một tổng giám đốc doanh nghiệp có tuổi đang chuẩn bị chuyển giao lại quyền lực của mình. 

Và quả thật, tinh thần lãnh đạo luôn là chủ điểm xuyên suốt trong rất nhiều giáo lý của Đức Đạt lai Lạt ma. Ngài thậm chí còn dùng Twitter để thường xuyên “tweet” về chủ điểm này. 

Những năm 1990, sau khi làm cố vấn quản lý quốc tế cho Đạt lai Lạt ma, Laurens van den Muyzenberg đã nhận ra tư tưởng ẩn giấu đằng sau những bài triết giảng ấy. Nhận thấy có thể kết hợp những tư tưởng mang tính phật giáo của Đức Đạt lai Lạt ma với lĩnh vực chuyên môn của mình, van den Muyzenberg đã cùng ngài viết cuốn sách The Leader’s Way (Con đường của nhà lãnh đạo).  

“Phần lớn khách hàng của tôi đều vướng phải những vấn đề liên quan đến đạo đức”, van den Muyzenberg nhận xét. “Thật khó có thể tìm người nào có đức độ được tôn kính đến như Đat lai Lạt ma”.

Dưới đây chúng tôi xin trích lọc một số giáo lý về người lãnh đạo đã được Đức Đạt lai Lạt ma đưa vào cuốn The Leader’s Way cũng như những bài thuyết giảng và những “tweets” của ngài.

Mở rộng tầm nhìn

Trong cuốn The Leader’s Way có hai thông điệp lớn. Phần thông điệp thứ nhất là: để lãnh đạo được, ta phải hiểu lý do vì sao ta hành động. Như Đức Đạt lai Lạt ma đã nói: “Bản chất của động cơ sẽ quyết định đặc tính của hành động”. Trong kinh doanh, điều này có nghĩa là ta phải nghĩ cho thấu về những hệ quả của các mục tiêu mà ta nhắm tới cũng như mục đích đằng sau những sự vụ hàng ngày. 

Ngoài ra, nó còn nhắc nhở ta không chỉ nghĩ về quyền lợi của mình mà cả quyền lợi của những người mà ta lãnh đạo. Việc tổ chức bàn thảo, lấy ý kiến của mọi người trong công ty và việc liên kết giữa các phòng ban là hai cách để đảm bảo rằng mọi người hiểu và đi theo hướng mà bạn chọn cho công ty. 

Thiết lập hành vi đúng

Đặt ra những nguyên tắc kinh doanh phổ biến không thôi là chưa đủ. “Tôi thấy nhiều công ty đặt ra những nguyên tắc hết sức cứng rắn nhưng họ lại không áp dụng được những nguyên tắc đó”, van den Muyzenberg nhận định. Để đảm bảo những nguyên tắc tốt đẹp nhất của ta được hiện thực hóa trong hoạt động kinh doanh, hãy xây dựng một hệ thống báo cáo, đánh giá tiến bộ một cách thường xuyên.  

Rèn luyện trí óc

Đức Đạt lai Lạt ma nói rằng nếu trí óc không được uốn nắn thì nó sẽ giống như một con khỉ trên cây, lúc nào cũng quá khích và không thể tập trung. Phật giáo dùng cách tu luyện, hay còn gọi là thiền, để chế ngự hành vi này của não. Mặc dù ít CEO nào có ý định đến các phòng tập dưỡng sinh để thiền mỗi buổi sáng trước khi đi làm, nhưng Đức Đạt lai Lạt ma vẫn luôn nhắc nhở rằng rằng một khi trí não được rèn luyện và giữ được trạng thái ôn hòa thì những cơn bốc đồng, quá khích sẽ giảm đi và chất lượng tư duy sẽ được nâng cao. “Người lãnh đạo phải nhận thức được khi nào thì tư duy của người đó bắt đầu bị chế ngự bởi những cảm xúc tiêu cực như bực tức, giận dữ, mất bình tĩnh, thiếu tự tin, ganh ghét, tham lam” – Đức Đạt lai Lạt ma và van den Muyzenberg đã viết trong cuốn The Leader’s Way. “Những cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực này không chỉ dẫn đến những quyết định sai lầm mà còn làm phí hoài trí lực”. Những kỹ thuật thiền cơ bản như hít thở sâu, thư giãn gân cốt và kiềm chế cảm xúc có thể giúp người lãnh đạo trở nên bình tĩnh, điềm đạm trong mọi lúc, mọi nơi. 

Tập trung vào niềm vui, niềm hạnh phúc

Điểm gì ở công ty khiến ta hài lòng? Điểm gì khiến ta không vui? Chỉ cần tự hỏi hai câu đơn giản này, người lãnh đạo có thể tìm ra cách tốt nhất để tạo động cơ làm việc cho nhân viên, thuyết phục khách hàng và giúp đỡ cho các cổ đông. Theo Đức Đạt lai Lạt ma, niềm vui, niềm hạnh phúc là hình thái chung nhất của động lực. “Ta thường quên đi rằng dù có nhiều điểm khác biệt nhưng ta vẫn giống nhau ở một điểm cơ bản nhất, đó là ước vọng về hòa bình và hạnh phúc”. – Ngài nói trên Twitter ngay tháng 11 vừa qua. Sự hài lòng của nhân viên, khách hàng và cả cổ đông phải là tiền đề mấu chốt. 

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là doanh nghiệp phải hy sinh lợi nhuận để làm được điều đó. “Một số người nghĩ rằng để có hạnh phúc, họ phải đánh đổi tiền bạc, nhưng thực ra không phải thế” - van den Muyzenberg cho biết. “Một công ty hạnh phúc là một công ty thành công. Khi bạn quan tâm đến khởi nguồn của niềm hạnh phúc thì lúc ấy bạn đang đầu tư nhiều hơn cho thành công”. 

Trở nên gắn kết

Đạo Phật cho rằng có mối giao hòa, gắn kết giữa vạn vật – con người chỉ thực sự tồn tại trong mối tương quan với những người khác. Từ quan điểm phật giáo, doanh nghiệp được coi là một mạng lưới các mối quan hệ, một sinh vật siêu phàm mà chỉ hoạt động khi mọi mối liên kết được hiện thực hóa. “Nhà lãnh đạo giao hòa luôn tự coi mình là một nguồn xung lực cho hệ thống giao hòa và nhìn ra mục đích của hệ thống đó”, -  Đức Đạt lai Lạt ma và van den Muyzenberg viết trong cuốn The Leader’s Way. 

Khi một xung lực – có thể là bất cứ thứ gì, từ một cuộc trò chuyện, một bài thuyết trình cho đến một chính sách – chạm đến một cá nhân khác, nó làm sản sinh ra ý tưởng và kích hoạt chuỗi phản ứng cho năng suất sáng tạo. Nhiệm vụ của người lãnh đạo là quản lý và duy trì nguồn xung lực đó cho đội ngũ nhân viên. Tuy nhiên, sự giao hòa không chỉ dừng lại ở quan hệ nội bộ công ty mà còn cả quan hệ  với khách hàng, người tiêu dùng, khu vực tài chính và thậm chí đối thủ. 

Luôn lạc quan

Điều hành doanh nghiệp là một việc vô cùng khó khăn. Những doanh nhân hay chủ doanh nghiệp nhỏ rất dễ rơi vào trạng thái lúc nào cũng lo lắng mọi thứ sẽ trở nên khó khăn và luôn chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Tuy nhiên, ngược lại, Đức Đạt lai Lạt ma lại khuyên doanh nghiệp nên có cái nhìn lạc quan: “Hãy ơn trời rằng hoàn cảnh của mình hơn rất nhiều người và có nhiều hứa hẹn và rồi lấy đó làm niềm vui, làm thế mạnh của mình” – Ngài đã nói thế trong một “tweet” của tháng trước. Mọi vấn đề đều có cách giải quyết và có thái độ đúng ngay từ đầu có thể giúp bạn tìm ra cách giải quyết đó. 

Và khi mọi thứ trở nên khó khăn, hãy lấy Đức Đạt lai Lạt ma làm nguồn cảm hứng.  Van den Muyzenberg nhớ lại: “Đã có lần Đức Đạt lai Lạt ma nói với tôi rằng “Anh có thể nghĩ chắc tôi không hạnh phúc vì tôi đã mất quê hương, mất tất cả. Nhưng tôi là người rất hạnh phúc đấy’”. 

(Dịch từ Inc) 

09h35' | 09/12/2011
Người gửi Thái Thanh Phương
Copy : Hoclamgiau.vn

[Om Mani] Cái TÔI trong mỗi người



Con người từ khi ra đời đã tồn tại cái tôi. Tự điển Thesaurus định nghĩa về cái tôi (hay ngã kiến - egoismism/the selfness) là sự tự nhận thức của một người về tư cách, nhân phẩm hoặc giá trị của chính mình, đặc biệt là để phân biệt mình với thế giới bên ngoài và các cá nhân khác.
 
Cái tôi trong mỗi người phát triển theo thời gian trong quá trình sống của con người... Khi còn nhỏ người ta ít bị các yếu tố xã hội tác động vào nhận thức về chính mình, nói cách khác, cái tôi được phát triển tương đối độc lập.
 
Quan niệm về cái tôi thường được hiểu theo hai khía cạnh: (1) Tích cực: sự hãnh diện phù hợp về những giá trị, nhân phẩm của chính bản thân; (2) Tiêu cực: sự nhận định sai về những giá trị, nhân phẩm của mình đưa đến sự tự ti hay tự tôn.
 
Ở đây không bàn đến trường hợp của một người hay nhún nhường hoặc thường khoe khoang vì lý do nào đó trong giao tiếp xã hội. Nếu một người không nhìn thấy được giá trị của chính mình sẽ cảm thấy bi quan và dễ bị tổn thương. “Mình thật chẳng làm nên trò trống gì là vô tích sự”, “Tôi thật là xấu xí, “Chẳng ai ưa tôi cả”… đó là một số những suy nghĩ thường có của một số những người luôn hoài nghi về giá trị thực sự của mình.
 
Khi bị chìm đắm trong sự tự ti, mặc cảm, người ta thường suy diễn, so sánh mọi thứ, mọi việc để cuối cùng tự cho mình là kẻ thua cuộc dẫn đến thái độ bi quan hoặc chán ghét mọi thứ xung quanh mình, đặc biệt là có ác cảm với những người mà họ cho là ba hoa, phô trương và kiêu ngạo... Không hài lòng với chính mình, ta cũng chẳng vui vẻ, cởi mở với ai. Tự ti có xu hướng sinh ra tự tôn. Khi bị đè nén, cái tôi bị bóp méo và khi chính chủ nhân thổi phồng nó lên (sau khi đã đè nén nó), thì cái tôi đó nó lại là sản phẩm của trạng thái tâm lý không tự chủ và giả tạo.
 
Tôi rất tâm đắc với một câu chuyện kể về Đức Đạt Lai Lạt Ma, người có một quan điểm đơn giản nhưng rất thiết thực về cách làm sao để tìm thấy sự tự tin cho mình. Khi được hỏi: làm sao Ngài có thể tự tin thuyết giảng trước đám đông hàng ngàn người, hoặc không e dè ngại ngần khi bắt chuyện với một người hoàn toàn xa lạ? Ngài trả lời: “Hãy thành thật với chính mình”.
 
Sự chân thành cộng với việc đánh giá đúng mức khả năng và những giá trị thực có của chính mình sẽ giúp chúng ta mạnh dạn hơn, cởi mở hơn với thế giới quanh ta cũng như sẵn sàng đón nhận để vượt qua các chướng ngại trong cuộc sống. Qua đó, nếu bạn cảm thấy thiếu hụt về một lĩnh vực nào đó, bạn không nên mất tự tin, bởi vì bạn biết rằng bạn còn có những giá trị khác. Cũng giống như một đứa bé gái khi bị trêu chọc là sún răng, nó liền hỏi lại: “Còn đôi mắt con thì sao?”. Nghĩ rằng mình có đôi mắt đẹp, cô bé đó muốn được nhìn nhận ưu điểm này của nó. Nó làm điều đó một cách tự nhiên, chân thành, không mặc cảm, không sợ bị đánh giá. Nếu “chịu khó” và chân thành (nghĩa là công bằng với chính mình) trong cuộc tìm kiếm, chắc chắn mỗi người sẽ tìm thấy những giá trị riêng của chính mình.
 
Thế thì một người phụ nữ nội trợ sẽ không thấy mất tự tin vì nghĩ rằng mình không tạo ra đuợc thu nhập và có vị trí xã hội như những người khác. Là một người vợ và một người mẹ tốt, giá trị của họ vô cùng to lớn đối với gia đình của họ và do đó họ tất nhiên là những người rất cần thiết trong xã hội. Một người không có diện mạo xinh đẹp vẫn có thể gây thiện cảm với mọi người xung quanh họ nếu người ấy thân thiện và vui tính.
 
Không những chỉ dừng lại ở việc tìm thấy và trân trọng những giá trị sẵn có của mình, con người còn có thể phát triển thêm những giá trị mới cho chính mình. Điều này cũng tương tự như việc các công ty trong quá trình phát triển giá trị thương hiệu đã không ngừng phát triển những dịch vụ cộng thêm (value adding service) cho khách hàng của mình. Ví dụ như các đại lý bán vé máy bay phát triển thêm dịch vụ giao vé tận nhà, hướng dẫn lộ trình bay, tư vấn cách chọn chuyến bay…
 
Mỗi người chúng ta cũng vậy, ai cũng có thể tạo thêm giá trị cho “thương hiệu” của chính mình bằng những việc làm đơn giản nhưng thiết thực, ví dụ như thể hiện sự quan tâm với những người xung quanh, sống vui vẻ, hòa nhã với mọi người, xây dựng những mối quan hệ tốt với người thân, bạn bè… Mọi nỗ lực dù nhỏ nhoi nhưng đều mang lại những kết quả đáng kể.
 
Khi tạo cho mình được nhiều giá trị, làm cho “cái tôi” của mình đẹp hơn, người ta sẽ cảm thấy tự tin, cởi mở và tìm thấy cũng như tạo ra được nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống. Thấy hiểu được giá trị thật về cái tôi của mình, người ta có thể “là chính mình” và sống thật với mình hơn. Họ sẽ không bị môi trường chung quanh chi phối cách nhìn về “cái tôi” của họ, không mặc cảm tự ti, không dễ bị tổn thương hay “chạm tự ái” với những câu nói, hành vi và thái độ dù vô tình hay cố ý của những người khác.
 
Tuy nhiên, ranh giới giữa việc nhận thức cái tôi tích cực và cái tôi tiêu cực là rất mong manh. Cái tôi một khi bị thổi phồng lại thường gây ra nhiều đổ vỡ, trở ngại… vì hình như cái tôi lại thường hay phát triển và được phóng đại cùng với cái tài. Cho nên căn bệnh “cái tôi quá to” cố hữu về sự kiêu ngạo và cố chấp trầm kha thường lại rơi vào những người có những thành công nhất định trong xã hội.
 
Một người leo lên nấc thang danh vọng, địa vị càng cao, thì cái tôi mà họ vác trên vai dường như càng nặng. Vì thế nếu khi một người bình thường đón nhận sự bất đồng về ý kiến của người khác một cách cởi mở, thì các “sếp” có thể xem đó là “không thể chấp nhận được”. Chính cái tôi quá lớn đã giam cầm một số người trong nhà tù của sự tự mãn và kiêu căng của chính mình. Mà đã là tù nhân thì làm sao có hạnh phúc?
 
Vậy làm sao cởi bỏ được cái gánh nặng cái tôi đó ra? Làm thế nào để kiểm soát được trạng thái tâm lý tự ti mặc cảm, hay ngược lại, tâm lý tự cao tự đại của mình? Làm sao để có thể vượt ra khỏi cái tôi tiêu cực, cái bản ngã nghiệp chướng của chính mình để có thể là một người tự do, được sống hồn nhiên yêu đời và hạnh phúc?
 
Khi chê ai đó có cái tôi quá lớn, người ta thường nói “cái tôi của hắn to bằng quả núi”, hoặc “anh ta tưởng anh ta là cái rốn của vũ trụ”, là “trung tâm của thế giới”… Như vậy, vô hình trung, chúng ta đã thừa nhận mình chỉ là những cá thể rất nhỏ trong một vũ trụ rộng lớn. So với vũ trụ và thế giới chung quanh, quả thật mỗi cá nhân chúng ta chỉ là những hạt nhân nhỏ bé. Những hạt nhân này khi di chuyển va đụng vào nhau, giao tiếp, hỗ tương với nhau, sau đó lại di chuyển tiếp trong quỹ đạo của riêng mình trong vũ trụ.
 
Đã không phải là vũ trụ mà chỉ là “cái rốn” của vũ trụ, thì tại sao lại dám xem mình là cả vũ trụ? Bên cạnh đó, mỗi cá nhân là một thực thể tồn tại, phát triển, sinh ra và mất đi, có sự hình thành và cấu tạo rất riêng biệt, với những giá trị nhất định riêng trong thế giới này. Mỗi hạt nhân tuy nhỏ bé nhưng đều có một chỗ đứng nhất định trong mối tương quan với vũ trụ và các hạt nhân khác, và không tồn tại vĩnh viễn trong một thực thể nhất định.
 
Cuộc đời có giới hạn, vậy thì tại sao chúng ta phải mang vác cái tôi nặng nề mà không cởi bỏ nó, để làm một người tự do, ung dung, tự tại và được là chính mình trong cuộc đời này ?
 
Nguồn: TƯỜNG NHI - Tạp chí Văn hóa Phật giáo

Wednesday, December 7, 2011

Kinh tế học hành vi - Ảnh hưởng của sự hưng phấn

  ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ HƯNG PHẤN


   
Anh Duy Nhất theo Phi Lý Trí 
Ngày 8/12/2012 

1- Khi ở trong trạng thái hung phấn, đam mê, bực tức, sợ hãi…. Mọi người hành xử như một con người khác.Nó sẽ xóa đi ranh giới đạo đức, đúng sai…

3- Khi ngọn lửa đam mê bùng cháy, chúng ta sẽ bị nó kiểm soát, và khi đó nền tảng đạo đức, sự tự trọng…. sẽ bị phai mờ, chúng ta là một con người khác mà chúng ta không biết. Hãy tránh xa ngọn lửa đam mê trước khi nó kiểm soát.Tránh xa các tác nhân gây bùng ngọn lửa đam mê đó. Uống nước lạnh, bật quạt mát, đổi hướng suy nghĩ…. Khi bạn “nóng”.

4- Để đưa ra quyết định đúng đắn, nên trải nghiệm và hiểu được cảm xúc mà chúng ta sẽ trải qua khi ở trạng thái đối lập.

5- Thường chúng ta rất ít dành thời gian để tìm hiểu con người kia của chúng ta. Vì vậy, giữa hai trạng thái “nóng” và “lạnh” rất khác nhau, hành xử của ta sẽ khác.

LUẬN ĐIỂM

1-      Biết rằng trong 2 trạng thái “nóng” – “lạnh” khác nhau ta sẽ hành xử khác nhau

2-      Hãy tránh xa cám dỗ trước khi nó đến.

3-      Trải nghiệm trước những điều chúng ta quyết định.

4-      Suy nghĩ lại những gì chúng ta đã trải qua.

ÁP DỤNG

1-      + Suy nghĩ, dự phòng, trải nghiệm trước những quyết định lớn

2-      + Hiểu mình, hiểu người khác trong những trạng thái khác nhau, sẽ có cách hành xư khác nhau.

      + Hãy mang BCS trong túi khi hẹn hò. Bạn không thể biết mình sẽ làm gì khi "đam mê" đến đâu.

      + Từ "đam mê" có thể thay thế với ý nghĩa hưng phấn, tức giận , sợ hãi.... tức là những lúc cảm xúc bạn " nóng" hơn bình thường. Những lúc tức giận, quyết định của bạn sẽ khác.

       + Hãy suy nghĩ những "cú sốc" những sự kiện lớn, những phản ứng đã xảy ra với bạn trong quá khứ để có những quyết định, những chuẩn bị trước cho tương lai.

       + Hiểu rằng, những lúc tức giận,hưng phấn... người bạn của mình sẽ có những hành động khác những ngày bình thường, mà chính họ cũng không thể kiểm soát được, hãy tha thứ nếu lúc đó họ làm gì có lỗi với bạn ,^^,

        .............

Monday, December 5, 2011

Những CEO làm sống dậy cả doanh nghiệp

Những CEO làm sống dậy cả doanh nghiệp

Cho dù quản lý một công ty đa quốc gia hay một công ty gia đình thì vị trí CEO cũng đòi hỏi một số kỹ năng đặc biệt. Đối với những người lãnh đạo của một công ty đang trong giai đoạn khó khăn thì yêu cầu này thậm chí còn cao hơn. CNBC đưa ra danh sách những CEO đã làm sống dậy doanh nghiệp của mình.

Cho dù quản lý một công ty đa quốc gia hay một công ty gia đình thì vị trí CEO cũng đòi hỏi một số kỹ năng đặc biệt. Đối với những người lãnh đạo của một công ty đang trong giai đoạn khó khăn thì yêu cầu này thậm chí còn cao hơn. Một ông chủ có khả năng vực dậy công ty cần phải có một kế hoạch hành động và những mực tiêu rõ ràng, đúng lúc, có sự hỗ trợ của hội đồng quản trị và các nhà quản lý có thâm niên trong ngành.
Không ai có thể cản trở sự thành công của Apple nhờ có Steve Jobs,  ông đã dốc sức khôi phục và biến công ty thành công ty công nghệ có lợi nhuận cao nhất.

Tuy nhiên, không phải bất cứ câu chuyện phục hồi công ty nào cũng có một kết thúc có hậu. Sau một hồi lâu nhìn phần mềm đồ họa Autocad, bà Carol Bartz đã nghĩ ra ý tưởng khôi phục Yahoo. Ý tưởng ấy thoạt đầu có triển vọng nhưng lại kết thúc trong thất vọng. Bà Carol đã bị khai trừ khỏi hội đồng quản trị mặc dù công ty vẫn trong tình trạng bấp bênh.

1. Peter Cuneo, Tập đoàn giải trí Marvel

Nhiệm kỳ: 7/1999 - 12/2002

Ông Peter Cuneo gia nhập tập đoàn giải trí Marvel ngay sau khi tập đoàn vừa thoát khỏi nguy cơ phá sản, gánh trên mình một khoản nợ lớn và các hoạt động kinh doanh của công ty đang đình trệ. Ông Peter Cuneo đã tập trung mở rộng các hoạt động kinh doanh quốc tế của công ty và đầu tư vào lĩnh vực điện ảnh, truyền hình và các mặt hàng tiêu dùng khác.

Những bộ phim với dàn diễn viên nổi tiếng đã trở thành những bộ phim bom tấn mang lại nguồn doanh thu khổng lồ cho công ty đồng thời Peter cũng làm mới hoạt động kinh doanh truyện tranh và phim hoạt hình của công ty.

Khi Peter lên nắm quyền, cổ phiếu của Marvel có giá là 94 cents/cổ phiếu nhưng 10 năm sau đó Walt Disney đã phải mua lại toàn bộ cổ phiếu của công ty với tổng giạ trị là 4 tỷ USD, tương đương 54USD/cổ phiếu.

2. Richard Clark- Côngty Merck


Nhiệm kỳ: 5/2005 - 12/2010

Ông Richard Clark, 35 tuổi, một người giàu kinh nghiệm thuộc công ty Merch, đã đi đầu trong cuộc chiến pháp lý với công ty Vioxx, một công ty sản xuất thuốc viêm khớm mang lại 2,5 tỷ lợi nhuận hàng năm đã bị đẩy ra khỏi thị trường vì sản xuất loại thuốc có nguy cơ gây chứng đau tim và đột quỵ. Ông đã cắt giảm một số công nhân và đóng cửa 5 xưởng sản xuất, đưa ra bán đấu giá để kiếm được gần 4 tỷ USD vào năm 2010. Ông đã hợp lý hóa quản lý và tiếp thị tập trung vào cung cấp một loại thuốc mới có triển vọng của công ty Merch. Ông Clark đã khôi phục lại danh tiếng cho công ty, lấy được 5 tỷ USD từ vụ kiện Vioxx và xin phê chuẩn được sản xuất 8 loại thuốc trong vòng 2 năm. Đến thời điểm năm 2008, giá cổ phiếu của Merch đã quay trở lại mức cao như trước vụ kiện Vioxx và gần như gấp đôi giá một cổ phiếu tại thời điểm tháng 4/2005.

3. Gordon Bethune, Hãng Continental Airlines

Nhiệm kì: 11/1994 - 11/2004
Gordon Bethune gia nhập vào công ty khi công ty đang thoát khỏi các điều khoản ở chương 11 luật Bảo hộ Phá sản. Tại thời điểm đó, Continental Airlines mất 55 triệu USDmỗi tháng và liên tục đứng cuối các bảng đánh giá hoạt động, bao gồm số chuyến bay đúng giờ, khiếu nại của khách hàng,  thất lạc hành lí. Dưới sự điều hành của Gordon Bethune, hãng đã bỏ các tuyến bay không hiệu quả, tăng cường dịch vụ tại các sân bay trung tâm, thương lượng lại các các khoản nợ và cho thuê, tiến hành kế hoạch chi trả giúp cải thiện đáng kể bảng thống kê số chuyến bay đúng giờ của hãng ở Houston.  Nhờ sự lãnh đạo của ông, giá cổ phiếu của Continental tăng từ 2 USD/cổ phiếu lên 10 USD/cổ phiếu.

4. Sergio Marchionne, Tập đoàn Fiat

Nhiệm kì: 6/2004 - Chủ tịch tập đoàn

Khi Sergio Marchionne nhận chức Tổng CEOtập đoàn, Tập đoàn Fiat đang ngập trong nợ nần và thua lỗ. Ông đã đóng cửa các nhà máy, cắt giảm nhân công, và thay thế các chức vụ quản lí cấp cao trong nỗ lực nhằm tăng thị phần và chuyển tổn thất thành lợi nhuận. Ông cũng đạt được một thỏa thuận với hãng ô tô Chrysler và đàm phán chấm dứt quan hệ hợp tác không mấy tốt đẹp với hãng General Motor - hãng nắm giữ 2 tỉ đô la của Fiat. Trong vòng 2 năm, Marchionne đã cứu công ty Ý này khỏi sụp đổ và mở rộng hoạt động sang Ấn Độ và Trung Quốc. Sau khi 4 năm 3 tháng thua lỗ, tập đoàn ô tô Fiat đã có lợi nhuận vào năm 2005. Sự cải cách của Marchionne tiếp tục với một dòng xe ô tô và xe tải mới, trong đó có xe Fiat 500 - loại xe nhỏ, mang phong cách thế kỉ 21 của chiếc xe 52 tuổi biểu tượng của nước Ý, chiếc xe từng được ngôi sao điện ảnh như Marcello Mastroianni và Sophia Loren sử dụng.

5. Mark Hurd, Tập đoàn Hewlett-Packard

Nhiệm kì: 3/2005 -8/2010
Mark Hurd tiếp quản tập đoàn từ Carly Forina, một CEO có lí lịch tốt nhưng có nhiều điều tiếng. Ông được biết đến là người thu xếp ổn thỏa việc sáp nhập đầy phức tạp với tập đoàn máy tính Compaq năm 2002. Mark Hurd đã làm rõ mục tiêu chiến lược của HP là tập trung đầu tư vào công nghệ, chuyển hướng từ hình ảnh analog sang hình ảnh số. Để tăng hiệu quả hoạt động của công ty, ông thực hiện cắt giảm nhân viên và cắt giảm chi phí trong toàn công ty. Mark Hurd chuyển trọng tâm từ lực lượng bán hàng sang đào tạo, thuê nhà xưởng và chăm sóc khác hàng. Do vậy, cổ phiếu của công ty tăng lên nhanh chóng. Trong 3 năm từ 2006 đến 2009, HP đã tăng doanh thu từ 60 tỉ lên 114,6 tỉ USD, gấp hơn đôi tiền lãi từ cổ phiếu. Mặc dù là một doanh nhân nhaỵ bén nhưng Mark Hurd bị buộc phải từ chức vì khoản công tác phí phạm pháp có liên quan tới một vụ tình nghi quấy rối tình dục.

6. Terry S. Semel (Yahoo)


Nhiệm kỳ: 5/2001 - 6/2007
Sau một thời gian dài làm việc cho Warner Bros, Terry S. Semel đã lên nắm cương vị lãnh đạo Yahoo, khi đó hoạt động kinh doanh của Yahoo đang rơi vào tình cảnh hết sức khó khăn. Để cải thiện tình hình, Semel đã thay thế lãnh đạo cấp cao Timothy Koogle của công ty. Bên cạnh đó, ông cũng phải hành động nhằm xóa tan những ngờ vực về sự thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ của mình. Ông đã đẩy mạnh marketing và phân phối sản phẩm của Yahoo và cố gắng chuyển đổi dịch quảng cáo trực tuyến của công ty sang hình thức thu phí. Semel đã ký được hợp đồng với hãng viễn thông SBC Communications (sau này là AT&T) để cung cấp dịch vụ truy cập băng thông rộng cho hàng triệu gia đình Mỹ. Nhờ tất cả những cải thiện này, năm 2002, lợi nhuận của công ty đã đạt 43 triệu USD trong tổng số doanh thu 953 triệu USD mặc dù chỉ một năm trước đó Yahoo đã lỗ tới 93 triệu USD.

Hiện nay Yahoo đang phải cạnh tranh gay gắt với 2 đối thủ lớn là Google và Facebook.

7. Lee Iacocca (Chrysler Motor)


Nhiệm kỳ: 1979 - 1992

Sau khi bị sa thải khỏi chức chủ tịch Ford Motors năm 1978, Lee Iacocca đã chuyển sang điều hành Chrysler Motor lúc này đang trên bờ vực phá sản và cứu công ty này khỏi nguy cơ sụp đổ. Iacocca đã tái đàm phán hợp đồng với các đại lý cho thuê xe hơi, sa thải một số nhân viên và thoả thuận được khoản vay 1,5 tỷ USD từ chính phủ. Ông bắt đầu phát triển dòng xe cỡ trung bình vào năm 1981. Kế đó là những thành công với dòng xe tải nhỏ Dodge Caravan và Plymouth Voyager. Năm 1983, Chrysler thu về 925 triệu USD và trả hết các khoản nợ cho chính phủ.

8. James R. Cantalupo (McDonald's)


Nhiệm kỳ: 2002 - 2004

Năm 2001, James Cantalupo đã thôi chức chủ tịch McDonald và về hưu, tuy nhiên một năm sau đó, ông đã quay trở lại để giúp công ty thực phẩm này vượt qua tình cảnh khó khăn. Khi đó, mọi người cho rằng đồ ăn nhanh của McDonald không có lợi cho sức khỏe. Nắm bắt được ý thức của người tiêu dùng về những loại đồ ăn có lợi cho sức khỏe, James Cantalupo đã cho ra mắt salad, bánh táo và thực đơn ít dầu tại một số thị trường. Nhờ vậy, doanh thu của công ty dần tăng trở lại. Thu nhập ròng quý 1/2003 của công ty đạt 327,4 triệu USD, trong khi con số này của năm trước đó chỉ là 253,1 triệu USD. Vào tháng 4/2004, Cantalupo đã qua đời vì đột quỵ.

9. Steve Jobs, Apple


Nhiệm kỳ: 1996 - 2001
Steve Jobs, người đồng sáng lập hãng Apple, đã quay trở lại công ty vào năm 1996 để đảm nhiệm vai trò CEO tạm thời sau khi hãng này mua lại NeXT (một công ty phát triển nền tảng máy tính chuyên về giáo dục và kinh doanh), được xem như dự án đầu tư gần đây nhất của Jobs. Năm 2007, Jobs trở thành tổng CEOcủa hãng Apple. Ngay từ rất sớm, Jobs đã giúp công ty đang trong thời điểm túng quẫn có được một dự án đầu tư trị giá 150 triệu USD từ đối thủ Microsoft, đổi lại các cổ phiếu không có quyền biểu quyết trong công ty - một sự đảm bảo rẳng Microsoft sẽ hỗ trợ phần mềm Office trên nền tảng Mac trong vòng 5 năm. Jobs tổ chức lại dây chuyền sản xuất, mở các gian hàng trực tiếp bán sản phẩm cho người tiêu dùng, cắt giảm chi phí hoạt động, tập trung tiếp thị máy tính cá nhân. Ông cũng tạo ra một bước tiến khi xâm nhập thị trường âm nhạc trực tuyến, chính từ đây iPod đã ra đời và sáng tạo ra phiên bản điện thoại di động iPhone.
Từ khi Jobs giành lại quyền lãnh đạo vào năm 1997, giá cổ phiếu của hãng Apple đã tăng hơn 9000%. Theo A.M. Sacconaghi Jr - chuyên gia phân tích tại Bernstein Research, đã có hơn 214 triệu chiếc máy nghe nhạc iPod, 129 triệu điện thoại iPhone cùng 29 triệu máy tính bảng iPad được tiêu thụ.

Jobs từ chức Tổng CEOApple vào tháng 8/2011. Ông qua đời ba tháng sau đó do bệnh ung thư tuyến tụy.

10. Mickey drexler, CEO của tập đoàn Gap


Nhiệm kỳ: 1995-2004

Vào năm 1995,  khi Mickey Drexler tiếp quản tập đoàn này thì  Gap đang đối mặt với một cuộc cạnh tranh khốc liệt. Ông đã quyết định dừng bán đồ Jean Levis và những mặt hàng không có thương hiệu. Drexler tập trung vào bán hàng Gap - Công ty Gap chỉ bán những quần áo cho người già và đối tượng khách hàng có thu nhập cao. Ông phát minh dây chuyền sản xuất, thiết kế cửa hiệu từ sàn cho đến trần nhà và mở các chiến dịch quảng cáo mạnh mẽ. Drexler tung ra thị trường các loại quần áo thời trang nhưng giá cả bình dân mà ai cũng có thể mua được và ông đã xây dựng Gap thành một công ty trị giá 14.5 tỷ đôla.

Trong vòng 1 thập kỷ, Khaki và Free Friday (ám chỉ cách phong cách ăn mặc thoải mái để chuẩn bị bước vào hai ngày nghỉ cuối tuần) đã gắn liền với tên tuổi của Gap. Công ty này cũng gặt hái được nhiều thành công nhờ các thương hiệu thời trang Banana Republic, Gap Kids và Old Navy - những thành quả cuối cùng của Drexler là Gap đã phát triển thành công ty tỷ USD chỉ trong 4 năm. Dưới sự lãnh đạo của Brexler, doanh thu bán hàng của Gap tăng vọt, từ 6.5 tỷ đô la năm trước tới 9.1 tỷ đô trong năm 1999. Nhưng Drex bị Gap sa thải năm 2002 vì giá cổ phiếu xuống dốc quá mạnh nhưng ngay sau đó ông lại nắm quyền lãnh đạo ở J.Crew.

Copy : http://vef.vn/2011-12-05-nhung-ceo-lam-song-day-ca-doanh-nghiep

Mục đích của cuộc sống



Câu hỏi:
Chúng tôi sống nhưng chúng tôi không biết tại sao. Đối với quá nhiều người chúng tôi, cuộc sống dường như không có ý nghĩa. Ông có thể giải thích cho chúng tôi ý nghĩa và mục đích của cuộc sống của chúng tôi?

Krishnamurti:
Bây giờ, tại sao bạn đưa ra câu hỏi này? Tại sao bạn đang yêu cầu tôi giải thích cho bạn ý nghĩa của cuộc sống, mục đích của sống? Chúng ta có ý gì qua từ ngữ cuộc sống? Cuộc sống có một ý nghĩa, một mục đích à? Tự thân cuộc sống không là mục đích của chính nó, ý nghĩa của chính nó hay sao? Tại sao chúng ta lại muốn nhiều hơn nữa? Bởi vì chúng ta quá thất vọng với cuộc sống của chúng ta, cuộc sống của chúng ta quá trống rỗng, quá phô trương, quá đơn điệu, đang làm cùng một sự việc lặp đi và lặp lại, chúng ta muốn cái gì đó nhiều hơn nữa, cái gì đó vượt khỏi cái mà chúng ta đang làm. Bởi vì cuộc sống hàng ngày của chúng ta quá trống rỗng, quá buồn tẻ, quá vô nghĩa, quá nhạt nhẽo, quá dốt nát; chúng ta nói rằng cuộc sống phải có một ý nghĩa trọn vẹn hơn và đó là lý do tại sao bạn đưa ra câu hỏi này.

Chắc chắn, một người đang sống phong phú, một người thấy sự việc như chúng là [như thị] và mãn nguyện với cái gì anh ấy có, không bị rối loạn; anh ấy trong sáng rõ ràng, vì vậy anh ấy không hỏi mục đích của cuộc sống là gì. Đối với anh ấy, chính sự sống là khởi đầu lẫn kết thúc.

Sự khó khăn của chúng ta là, bởi vì cuộc sống của chúng ta trống rỗng, nên chúng ta muốn tìm ra một mục đích cho cuộc sống và theo đuổi nó. Một mục đích của cuộc sống như thế chỉ thuần túy là sự hành động của tư tưởng, không thực tế chút nào; khi mục đích của cuộc sống được theo đuổi bởi một tâm dốt nát, đờ đẫn, bởi một tâm hồn trống rỗng, mục đích đó cũng sẽ trống rỗng. Vì vậy mục đích của chúng ta là làm thế nào cho cuộc sống của chúng ta ‘giàu có’ hơn, không phải với tiền bạc và mọi chuyện còn lại của nó mà là sự giàu có phía bên trong – mà không phải là cái gì đó bí ẩn. Khi bạn nói rằng mục đích của cuộc sống là hạnh phúc, mục đích của cuộc sống là tìm được Thượng đế, chắc chắn ham muốn để tìm được Thượng đế đó, là một sự chạy trốn khỏi cuộc sống và Thượng đế của bạn chỉ là một sự việc đã được biết. Bạn chỉ có thể đi đến một mục tiêu mà bạn biết; nếu bạn bắc cầu thang đến sự việc mà bạn gọi là Thương đế, chắc chắn đó không phải là Thượng đế.

Thực tại chỉ có thể hiểu rõ trong sự sống, không phải trong sự chạy trốn. Khi bạn tìm kiếm một mục đích cho cuộc sống, bạn thực sự đang chạy trốn và không đang hiểu rõ cuộc sống là gì. Cuộc sống là tương giao, cuộc sống là hành động trong tương giao; khi tôi không hiểu rõ sự tương giao, hay khi sự tương giao bị hỗn loạn, lúc đó tôi tìm kiếm một ý nghĩa trọn vẹn hơn. Tại sao cuộc sống của chúng ta quá trống rỗng? Tại sao chúng ta quá cô độc, quá tuyệt vọng? Bởi vì chúng ta không bao giờ nhìn vào chính chúng ta và hiểu rõ về chính chúng ta. Chúng ta không bao giờ tự thú nhận với chính chúng ta rằng, sống này là tất cả những gì chúng ta biết và rằng, nó nên được hiểu đầy đủ và trọn vẹn. Chúng ta thích chạy trốn khỏi chính chúng ta, và đó là lý do tại sao chúng ta tìm kiếm một mục đích của cuộc sống tách khỏi sự tương giao. Nếu chúng ta bắt đầu hiểu rõ hành động, là sự liên hệ của chúng ta với con người, với tài sản, với những niềm tin và những ý tưởng, thì chúng ta sẽ phát hiện rằng sự liên hệ, chính nó, mang lại phần thưởng riêng của nó. Bạn không phải tìm kiếm. Nó giống như tìm kiếm tình yêu. Bạn có thể tìm được tình yêu bằng cách tìm kiếm nó hay sao? Tình yêu không thể được vun bồi. Bạn sẽ chỉ tìm được tình yêu trong sự tương giao, không phải bên ngoài sự tương giao, và chính vì chúng ta không có tình yêu nên chúng ta muốn một mục đích của  cuộc sống. Khi có tình yêu, là sự vĩnh hằng của chính nó, thì sẽ không còn sự tìm kiếm Thượng đế, bởi vì tình yêu là Thượng đế.

Chính vì tâm trí chúng ta đầy ắp những thông tin kỹ thuật và những thầm thì mê tín, nên cuộc sống của chúng ta quá trống rỗng và đó là lý do tại sao chúng ta tìm kiếm một mục đích vượt khỏi chính chúng ta. Muốn tìm được mục đích của cuộc sống chúng ta phải đi qua cánh cửa của chính chúng ta; Dù có ý thức hay không ý thức, chúng ta lẩn tránh đối diện những sự việc như chúng là trong chính chúng, và vì vậy chúng ta khẩn cầu Thượng đế mở cho chúng ta một cánh cửa vượt thoát khỏi đây. Câu hỏi về mục đích của cuộc sống này chỉ được đặt ra bởi những người không thương yêu. Tình yêu chỉ có thể tìm được trong hành động, mà hành động là sự tương giao.

Krishnamurti, The first and last freedom
Ông Không dịch
Kiran hiệu đính
Nguồn: thuvienhoasen.org

Copy : http://phattriencanhan.org/muc-dich-cua-cuoc-song/

Thursday, December 1, 2011

Hai ngày với Đức Đạt Lai Lạt Ma

by Thanh Son Nguyen
Category: Confession of a PR man

 
Khi nhận được lời mời tham gia vào đoàn hành hương gồm các doanh nhân, nghệ sĩ và phóng viên Việt Nam tới Dharamshala thọ giáo Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi hiểu đây có thể là cơ hội duy nhất trong đời tiếp xúc với người được suy tôn là một trong ba vị thánh nhân của châu Á trong thế kỷ XX, và là người duy nhất còn tại thế. Thân phận đặc biệt của Ngài và mối quan hệ “tế nhị” giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ cản trở bất cứ cố gắng nào mời Ngài viếng thăm Việt Nam, cho dù ảnh hưởng của Phật giáo Mật tông bắt đầu được gia tăng ở đây. 

Sau bẩy giờ bay và chịu đựng những cú xóc kinh người suốt gần hai mươi tiếng đồng hồ trên xe bus, chúng tôi tới Dharamshala khi trời đã tối. Dharamshala, thủ phủ chính phủ lưu vong của người Tây Tạng là một thị trấn nhỏ nằm dưới chân dãy Himalaya ở miền Bắc Ấn độ. Hãy nhắm mắt lại hình dung  ra Sapa, Mèo Vạc hay bất cứ một thị trấn vùng biên của Việt Nam, thay thế hình ảnh người Mông, người Dao bằng người Tạng, hình ảnh người Kinh bằng người Ấn độ- vậy là bạn đã hình dung ra Dharamshala. Cũng những dãy phố nhỏ dốc ngược, với hàng trăm cửa hàng nhỏ và tồi tàn bán đủ thứ đồ lưu niệm tạp nham có nguồn gốc đáng ngờ, những con ngựa thồ nặng vừa cặm cụi đi ngược dốc núi vừa vãi phân ra tung tóe trên đường, những khách sạn mini và các quán bar nhỏ xíu với các biển quảng cáo được viết cẩu thả bằng tiếng Anh, tiếng Ấn, những đống rác khổng lồ bốc mùi hôi khủng khiếp ở cạnh sườn núi. Cũng giống như các thánh địa khác, Dharamshala thu hút đủ mọi loại người: các tăng nhân người Tạng, giới bán hàng rong và đám “cái bang” Ấn độ, các nhà sư có nguồn gốc từ mọi ngóc ngách trên thế giới đang học tập tại các tu viện Mật tông, những người mộ đạo Phật, những kẻ hiếu kỳ và khách du lịch thập phương. Từ năm 1959, nơi đây đã trở thành “tiểu Lasha”, “thủ đô lưu vong” của người Tạng và hành cung của Đức Đạt Lại Lạt Ma thứ 14, Tenzin Gyatso (hay Đăng-Châu Gia-mục-thố theo phiên âm tiếng Hán).


“Qui Lão” giản dị

Trước khi tới Dharamshala, tôi đã nghe nói nhiều về tính giản dị của Đức Đạt Lại Lạt Ma, và được căn dặn ông chỉ muốn mọi người coi ông như một “nhà sư bình thường”- nhưng liệu có thể coi lãnh tụ tinh thần của gần sáu triệu người Tạng, người đã từng đoạt giải Nobel hòa bình vì đấu tranh hòa bình suốt hơn nửa thế kỷ qua cho quyền tự quyết của nhân dân Tây Tạng là một “nhà sư bình thường” như bất kỳ một nhà sư nào khác? Ấy vậy mà, đó chính là cảm giác của tôi trong buổi sáng đầu tiên, khi các thị giả dìu ông vào phòng Pháp thoại (ở tuổi 77, mặc dù trông vẫn rất khang kiện, nhưng bước chân của ông đã trở nên nặng nề)- nếu không phải khuôn mặt của ông đã trở nên quá quen thuộc với chúng tôi qua sách báo, thì ông có thể lẫn vào với bất cứ một nhà sư Mật tông nào khác. Ông ngồi đó, bộ trang phục đơn sơ hở một bên vai, hòa hợp một cách tuyệt vời với sự giản dị của tu viện Namgyal, tu viện riêng của ông, trên chiếc ghế bành đơn giản đến không thể đơn giản hơn được nữa. Ngoài một bức tranh Phật Tổ và mười bẩy bức Thang-ka họa hình các thánh tăng trang trí trên tường, thì phòng học của chúng tôi giống hệt như phòng học của bất cứ một lớp học phổ thông nào tại Việt Nam. Và câu đầu tiên của ông nói với chúng tôi (câu ông sẽ còn phải nhắc lại rất nhiều lần trong suốt hai ngày kế tiếp) là “ngồi, ngồi đi”- qua cách xua tay dứt khoát của ông, có vẻ ông rất “dị ứng” với việc chúng tôi định cử hành lễ “tam bái”, nghi lễ được các sư thầy chuẩn bị cho cả đoàn để biểu hiện lòng thành kính của chúng tôi đối với ông. “Tôi xin lỗi vì ra muộn”- ông nói vẻ hối lỗi-“ có một đoàn đại biểu của người dân tộc tôi vừa tới, và tôi phải tiếp họ một chút. Các bạn biết đấy, họ tới được đây không dễ một chút nào…”. Ngừng một chút, ông nói tiếp “ Tôi đã gặp rất nhiều người Việt Nam ở Mỹ, Pháp, Úc…và tôi luôn luôn giữ một tình cảm đặc biệt đối với đất nước và dân tộc Việt Nam, nhưng đặc biệt hơn cả là đối với những người Việt Nam đến từ Việt Nam”.

Từ Đức Đạt Lai Lạt Ma toát ra một vẻ từ hòa và bình thản vô cùng, và kể từ giây phút đó, hai ngày pháp thoại của chúng tôi bên cạnh ông không còn giống như hai ngày của các tín đồ sùng tín với Đức Phật sống của họ, thế thân của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, mà giống như hai ngày chúng tôi trở về quê hương, ngồi hầu chuyện ông mình trong ngôi nhà cổ xưa của dòng họ, một cảm giác kính trọng nhưng vô cùng thân thuộc. Thân thuộc trong cách ông gọi chúng tôi là “các anh chị em tôi từ Việt Nam”, trong tiếng ho húng hắng của ông, trong cái cách ông tận tình trả lời bất cứ câu hỏi nào của các thành viên trong đoàn. Chúng tôi thầm gọi đùa ông là “Qui Lão”, mà quả thật, trên chiếc ghế bành của mình, trông ông rất giống một “cụ rùa”, với đôi mắt già hiền từ, toát ra một vẻ thông tuệ như đại hải mà lại tinh nghịch trẻ trung như trẻ thơ. 

Ông không ngừng lắc lư, ho hắng, hắt hơi, niệm chú, thỉnh thoảng lại gãi gãi gò má và liên tục pha trò trong câu chuyện của mình. Suốt hai ngày Pháp thoại, lúc nào cũng vang lên tiếng cười khà khà hóm hỉnh của ông, dường như ông luôn ngạc nhiên vì những ý tưởng của chính mình và tự cười chính những ý tưởng đó. Từ vẻ sững sờ khi một thành viên trong đoàn hỏi ông về câu nói được cho là của ông đang lan truyền trên mạng Internet (“ Điều gì làm Ngài ngạc nhiên nhất về nhân loại? Con người- bởi vì họ hi sinh sức khỏe để kiếm tiền, rồi lại bỏ tiền ra để tìm lại sức khỏe. Họ quá sốt ruột với tương lai nên chẳng còn thời gian để tận hưởng hiện tại, kết quả là họ chẳng sống ở hiện tại hay ở tương lai. Họ sống như thể họ không bao giờ chết, rồi lại chết như chưa từng được sống”). “Tôi có nói thế bao giờ đâu! Này, đừng tin ở Internet, nó là một trong những thứ rất tốt đẹp được sinh ra, nhưng người ta cũng có thể lợi dụng nó để làm điều xấu xa đấy!”, cho đến cách ông tự trào khi các thị giả khoác lên người ông vương bào để ông làm lễ qui y và phát nguyện Bồ Đề tâm cho một số thành viên trong đoàn( “để làm lễ nên họ bắt tôi phải mặc cái áo bào này, làm như cái áo này sẽ làm cho tôi thánh thiện hơn ấy”); hay ngay cả khi ông nói đến những vấn đề hệ trọng như quan hệ với nhà cầm quyền Trung Quốc (“họ luôn gọi tôi là quỷ dữ, hôm nay thế là các anh chị em đã được gặp quỷ rồi đấy”). Và tôi hiểu, tại sao với người Tạng, ông là hiện thân của Huệ Hải (trí tuệ lớn như biển)- không gian xung quanh ông tràn ngập vẻ đẹp mêng mông của sự giản dị, trong sáng mà thâm sâu của một trí tuệ vĩ đại.

Qui LãoNgười ta cứ làm như khoác chiếc áo này lên tôi sẽ trở nên thánh thiện hơn


Vị Pháp vương giữa thế tục

 “Thế kỷ XXI là thế kỷ của lòng tham vật chất, và con người chợt nhận ra rằng, những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật không giải quyết được những vấn đề cơ bản của con người”- ông bắt đầu buổi Pháp thoại của chúng tôi như vậy-“để giải quyết những vấn đề tinh thần của con người, có ba con đường: tin vào một (hay nhiều) đấng chúa trời như Thiên chúa giáo, Hồi giáo hay Ấn giáo; tin vào một đấng giác ngộ như Phật giáo; con đường thứ ba là con đường của chủ nghĩa thế tục, mong muốn dùng khoa học để giải quyết những vấn đề tinh thần của con người- và con đường này cũng hết sức quan trọng”

Trong suốt hai ngày Pháp thoại, chữ “chủ nghĩa thế tục” cứ quay đi quay lại trong bài giảng của ông. Có lẽ, trong các lãnh tụ tôn giáo, ông là người quan tâm nhiều nhất đến những điểm chung giữa tôn giáo và khoa học, tôn giáo và giáo dục, tôn giáo và đạo đức (“cần phải tăng cường giáo dục về đạo đức cho con người, đạo đức thế tục không có nghĩa là thiếu tôn trọng tôn giáo mà có nghĩa là tôn trọng tất cả các tôn giáo”-ông nói). Ở một nghĩa nào đó, tôi cho rằng, sự quan tâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với chủ nghĩa thế tục có liên quan nhiều đến sự quan tâm của ông đối với số phận của dân tộc Tạng, dân tộc ông đã dẫn dắt suốt năm mươi năm qua. Cho dù đã tuyên bố từ bỏ vai trò chính trị, không thể phủ nhận sự giằng xé  giữa vai trò nặng nề của một chính trị gia có trách nhiệm với dân tộc bị đàn áp của mình, với mong muốn đạt được sự hiểu biết và giác ngộ cho chính bản thân. Có một nối buồn ẩn sâu trong câu nói đùa của ông “ khi xảy ra chiến tranh ở Việt Nam, tụng niệm “A-di-đà-phật” có làm chiến tranh ngừng lại đâu? Cũng như dân tộc Tạng chúng tôi, tụng niệm “A-di-đà-phật” có ngăn chặn được việc chúng tôi bị giết, bị đuổi khỏi nhà, lưu vong trên xứ sở lạ được đâu? Cho nên tụng niệm “A-di-đà-phật” không đủ, phải tìm cách hiểu thế giới, tìm cách nắm được tri thức thì mới có cơ hội”

Chính vì vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, trong suốt ba mươi năm qua, ông đã tiến hành hàng ngàn cuộc trao đổi với các nhà triết học, tâm lý học, vật lý và vật lý lượng tử học, và chính trong các cuộc trao đổi như vậy, hai bên đã làm giầu kiến thức cho nhau. “Các nhà khoa học hết sức quan tâm đến quan điểm của Phật giáo về thế giới, bởi vì đối với Phật giáo không có Đấng sáng tạo, mà đức Phật cũng là một chúng sinh bình thường nhưng với huệ giác cao cả, tái sinh để khai mở con đường chứng ngộ cho nhân loại mà thôi…họ đặc biệt quan tâm đến thuyết “duyên khởi” và “tùy thuộc phát sinh” của Phật giáo chúng ta, vì khái niệm mọi vật liên quan tương hỗ đến nhau của nhà Phật rất gần với cách họ hiểu về thế giới”. Ông cũng nói ông đã học được gì từ những cuộc trao đổi đó: “Trong một cuộc hội nghị ở Nam Mỹ, tôi đã gặp một nhà vật lý nguyên tử người Chi-lê. Ông ấy nói với tôi rằng, để có thể tìm hiểu được vật lý nguyên tử nói riêng hay khoa học nói chung, với tư cách một nhà khoa học, ông ấy phải tìm cách “thoát bỏ” khỏi khoa học để có góc nhìn rộng hơn. Ông ấy làm tôi giật mình. Phải chăng để tìm hiểu về Phật giáo, tôi cũng phải tìm cách “thoát bỏ” để có thể có một góc nhìn khác đối với Phật pháp”.

Vậy phải hiểu thế giới như thế nào? “Có quá nhiều thứ xấu xa đã xảy ra chỉ vì chúng ta luôn phân biệt “chúng nó” và “chúng ta”. Phân biệt giữa chủng tộc này với chủng tộc khác, dân tộc này với dân tộc khác, thậm chí gia đình này với gia đình khác, người này với người khác. Luôn luôn có một ranh giới giữa “chúng nó” và “chúng ta”, và điều này tạo ra tham ái, tham ái sẽ tạo ra sân hận, si mê. Chỉ khi nào mọi người hiểu rằng, nền tảng của con người nói chung, bất kể họ là “nó” hay “chúng ta”, là ham muốn hạnh phúc, và vì vậy, chỉ khi nhân loại hiểu rằng chỉ có một “chúng ta” thống nhất mà không có “nó”, và tất cả chúng ta đều liên quan tương hỗ với nhau trong khát vọng mưu cầu hạnh phúc, khi đó mới có thể có một thế giới hòa bình”

 Phật Giáo trong nghĩa bản thủy  của nó

 Trước khi tới Dharamsala, có người giải thích cho tôi vì sao thời gian vừa qua, bỗng dưng người Việt Nam đặc biệt quan tâm đến Mật tông Tây tạng. “Người Việt mình vốn vừa mê tín vừa lười biếng, nên khi nghe đồn Mật tông Tây tạng có nhiều chân ngôn, chú ngữ thì tin vào nó như tin vào những phép mầu, lại nghĩ rằng theo truyền thống Mật tông, các bậc thầy có thể truyền lại cho đệ tử những bí chú, các phép mầu (mà họ gọi một cách “hiện đại” là “năng lượng”) thông qua mật ngôn hoặc trì chú, vì thế không cần phải cố gắng gì, chỉ cần “có duyên” tìm ra được một bậc thầy rồi câu thông được với linh hồn của bậc  thầy đó là có thể có được những năng lượng đặc biệt, do đó họ mới thích thú với Mật tông Tây tạng như vậy”.

 Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như thấy trước được điều đó, nên ông dành gần như toàn bộ thời gian Pháp thoại của chúng tôi để dẫn dắt mọi người quay lại với nguồn cội của Phật giáo. Ông cảnh báo “các bạn rồi sẽ gặp những vị Lạt Ma, những người hứa với các bạn chỉ cần bỏ ra vài chục ngàn đô các bạn sẽ đạt được tới sự giác ngộ. Hãy cảnh giác và sử dụng lý trí của mình. Hãy lựa chọn bậc thầy của mình. Thử nghĩ xem, bạn ra chợ mua một món đồ đắt tiền, bạn có xem xét cẩn thận không? Có kiếm tra nó không? Vậy tại sao với một thứ quan trọng như Phật pháp, các bạn lại không xem xét cho cẩn thận. Trong số 320 bộ sách của Tạng pháp, có 12 bộ nói về những đức tính cần có của bậc thầy. Hiện quán Trang Nghiêm Kinh đã liệt kê rất nhiều yêu cầu về bậc thầy, từ Từ, Hòa, Bi, Tuệ…vv nhưng Mật tông còn đòi hỏi cao hơn, yêu cầu cả về nội công đức và ngoại công đức của họ. Đối với Phật giáo, không có đường tắt! Phật giáo có thể tóm gọn trong hai từ Giáo-Chứng! Trước tiên, phải học (Giáo), sau đó, khảo nghiệm nó, thực hành nó để tìm ra huệ giác cho mình (Chứng)…Cũng giống như bước vào trường học, phải học qua các lớp, chúng ta phải học tập dần dần, từ Giới Học, tới Định Học và cuối cùng là Tuệ Học mới mong đạt được giác ngộ chân chính. Bước đầu tiên như Giới Học, chúng ta cũng có tới 227 giới để tu tập, chưa kể tới các bước kế tiếp…Đức Phật đã tìm ra con đường để giải thoát, nhưng ngài chỉ chỉ cho chúng ta thấy con đường đó và làm thế nào để đi đến đích, còn việc lựa chọn bước lên con đường đó và bước từng bước để đạt tới giác ngộ cuối cùng là hành động của các anh chị em…”

Vậy, phải học gì? Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu buổi Pháp thoại bằng giáo thuyết cho chúng tôi về “ngã” và ba câu hỏi quan trọng nhất của Phật giáo Mật Tông (“ngã là gì”? “có kết thúc của ngã hay không?”, “ngã có tồn tại độc lập với thể xác hay không?”). Ông cũng thuyết giảng về “luân hồi”, về thuyết Duyên khởi và mười hai nhân duyên, đặc biệt về “vô minh”, phân biệt giữa “vô minh do thiếu hiểu biết” và “vô minh do hiểu biết sai” (ông dùng chữ “distorted ignorance” mà các sư thầy dịch là “tà niệm”, nhưng tôi thấy không chính xác) và sự nguy hiểm của vô minh do hiểu biết sai. Hiểu biết sai là nguồn gốc của “tam độc”- tham, sân, si khiến con người bị chìm trong luân hồi, chịu đựng đau khổ của “nghiệp”. Ông giảng về tầm quan trọng của Tứ Diệu đế trong Chuyển luân kinh, giáo pháp đầu tiên Đức Phật thuyết giảng tại vườn Lộc Uyển sau khi ngài đạt Giác ngộ, Bát Chính Đạo và Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh, vừa giảng vừa ngâm nga câu cuối cùng của tâm kinh “tadyatha-gate gate paragate parasamgate bodhi svaha! (Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, hoàn toàn vượt qua, tìm thấy giác ngộ). Dường như ông hiểu được, đối với một “đại chúng” ô tạp như chúng tôi, tâm trí chứa đầy những thiên kiến của “vô mình do hiểu biết sai” thì cách tốt nhất là dẫn dắt chúng tôi trở về với điểm bắt đầu của Phật giáo. Cho nên, có thể đối với một số người, khoảng khắc Đức Đạt Lai Lạt Ma niệm và hướng dẫn chúng tôi niệm hai mươi mốt lần Lục Tự Đại Minh chân ngôn (Om Mani Padme Hum) là khoảng khắc xúc động nhất, nhưng với tôi, quan trọng hơn cả là lời giảng của ông về chân ngôn này. Ông nói, Om có nghĩa là Thân-Khẩu-Ý, Mani là ngọc quí, Padme là trí tuệ, Hum là kết hợp lại, cho nên Lục Tự Đại Minh chân ngôn có nghĩa là hãy dùng trí tuệ để kết hợp thân-khẩu-ý lại hoàn hảo để hiểu được tính Không, như một viên ngọc quí. Hiểu được tính Không, có nghĩa là sẽ hiểu được cách “đoạn vô minh”, từ đó đạt được sự giác ngộ
Tôi cứ tự hỏi, vì lẽ gì Đức Đạt Lai Lạt Ma phải mất hai ngày quí báu của ông để truyền thụ Phật pháp cho chúng tôi, hơn một trăm người phần lớn không phải Phật tử, phần lớn còn trong cõi vô minh? Phải chăng chúng tôi đã quá may mắn, hay đối với ông, không quan trọng là bao nhiêu người, ở đâu và khi nào, mà quan trọng là mầm thiện mà ông đã kiên nhẫn gieo vào lòng chúng tôi, khi chúng tôi thầm phát nguyện Bồ Đề tâm theo sự dẫn dắt của ông, bắt đầu bước bước chân đầu tiên trên con đường giác ngộ: “Với ước nguyện giải thoát cho toàn thể chúng sinh, con xin về nương dựa nơi Phật, Pháp cùng Tăng Già, cho đến khi giác ngộ. Hôm nay tâm hướng về Từ bi và Trí tuệ, đối trước đức Phật, con quyết vì thế giới hữu tình, nguyện phát tâm Bồ đề. Bao giờ không gian còn, hữu tình còn, nguyện con còn ở lại, xua tan khổ nạn cõi thế gian”
 
  Copy : http://ta-ogilvy.vn/hai-ngay-voi-duc-dat-lai-lat-ma/#comments