Showing posts with label Tâm Linh. Show all posts
Showing posts with label Tâm Linh. Show all posts

Wednesday, December 11, 2013

Sống Thoải Mái Với Hiện Tại



Thiền dạy hai bài học quý báu:

1) Hãy chấp nhận những gì cuộc đời mang tới, cả phần tốt lẫn phần xấu. 
2) Sống với hiện tại, thoải mái với những niềm vui nhỏ bé.

     Bà cụ già đau yếu than thở với bà bạn thân nhất của mình, “Tôi ghét cái tuổi già. Tôi ghét vì phải ở đây trong cái nhà dưỡng lão này.”
     Bà bạn lên tiếng, “Chúng mình phải lạc quan.”
     “Lạc quan về cái quái gì chứ? Trời đất ạ!”
     “Vậy thì, bà đang đau nhức hay sao?”
     “Không.”
     “Bà còn nhớ mình cảm thấy khoan khoái biết bao khi rốt cuộc rồi cái đau cũng phải hết không? Như vậy thoải mái đấy chứ?”
     “Đúng vậy.”
     “Bà hãy coi như bây giờ bà đang hưởng cái thoải mái ấy đi.”
     “Nhưng cái gì ở đây cũng khủng khiếp hết. Đồ ăn thì…”
     Bà bạn thân lên tiếng hỏi, “Bữa trưa bà ăn thấy sao?”
     “Dở quá trời!”
     “Tất cả đều dở hay sao? Tuy thế mà bà ăn hết đó.”
     “Tất cả tôi chỉ có mấy thứ đó. Còn gì khác đâu mà chọn lựa,” bà cụ đau yếu trả lời.
     “Bà thấy có một món nào được không?”
     “Món kem trộn lên trên rau và trái cây.”
     “Được rồi, hãy bắt đầu từ món đó. Bà hãy cứ nghĩ về món kem đi.”
     “Chuyện này thấy quá lố, lạc quan một cách giả tạo.”
     “Vậy bà hãy nói lại cho tôi nghe tại sao bà đã ăn hết phần ăn trưa của bà?” bà bạn thân hỏi.
     “Trời đất ơi, vì tôi chỉ có mấy món đó thôi.”
     “Đó là cái mà nãy giờ tôi muốn cố nói ra đó, bồ ạ.”

Thiền dạy hai bài học quý báu: 1) Hãy chấp nhận những gì cuộc đời mang tới, cả phần tốt lẫn phần xấu. 2) Sống với hiện tại, thoải mái với những niềm vui nhỏ bé.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Zen Fables For Today – Richard McLean)

Monday, December 9, 2013

Tên ăn trộm



Có tiếng ồn ào ở phía trên rẫy, nhà sư vừa bước ra khỏi thiền thất thì chú Liễu Minh cũng vừa đi tới.
- Bạch thầy! Rẫy mình vừa bị mất trộm, sáng nay lên nhổ sắn chúng con mới biết.
- Thế à!
- Dạ mất đâu khoảng chừng vài vồng.

Nhà sư dừng lại, chậm rãi nói:

- Con ạ! Mất sắn và trộm sắn không phải là vấn đề của chúng ta! Là kẻ tu hành, vấn đề của chúng ta là, nhân đó, ta thử lắng nghe lại lòng mình một cách trung thực hơn. Ta sẽ lắng nghe rằng: ta có thể rộng lượng tha thứ được cho người chăng? Ta có móng khởi một tiếc rẻ nào khi mất đi một ít vật chất, của cải? Ta có thể san sẻ cho người bằng cách nhịn ăn một vài bữa! Và, sau hết, trong ta có dậy mối bất bình, phiền não chăng? Chúng ta là người học hạnh giải thoát, có gì phải giải quyết ngoài những vấn đề tương tự?

Liễu Minh sững lại, nhà sư mỉm cười nắm tay chú theo lối mòn lên rẫy.
Liễu Minh nói:
- Bạch thầy! Hồi nãy, con với chú Bất Đạt cãi nhau. Con thì nói tha. Chú Bất Đạt lại nói bắt. Con và chú ấy thường có quan niệm bất đồng.
Bất Đạt và Bất Ác từ trong những lùm sắn bước ra, mỗi người tay xách mấy chùm sắn vụn. Thấy nhà sư, Bất Đạt cất giọng oang oang:
- Bạch thầy! Cái lũ ăn trộm này, gặp con, chúng sẽ biết tay!
Liễu Minh cãi lại:
- Biết tay như thế nào? Chú bắt chăng? Ý thầy là thầy sẽ tha cho phù hợp với tâm từ!
Nhà sư nói:
- Không , Liễu Minh con! Thầy không tha! Vì tâm từ nên thầy không tha!
Bất Đạt reo lên:
- Đó, chú Liễu Minh thấy chưa? Vì tâm từ nên thầy không tha, thầy sẽ bắt.
Nhà sư cười:
- Không, Bất Đạt con! Thầy không bắt! vì tâm từ nên thầy sẽ không bắt.
Cả ba chú đều ngơ ngác:
- Bạch thầy thế thì...
Thấy vầng trán và cặp chân mày của Liễu Minh cau lại, nhà sư dịu dàng nói:
- Liễu Minh! Con hiểu về tâm từ như thế nào mà bảo nên tha?
- Vì tâm từ là thương người, yêu chúng sanh, mong chúng sanh thảy đều yên vui, hạnh phúc!
- Như vậy, vì tình thương mù quáng, con sẽ dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian!
Bất Đạt góp lời:
- Vì không muốn dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian, cho nên, con sẽ bắt mới đúng nghĩa tâm từ!
- Như vậy, vì tâm từ nóng vội con sẽ nuôi dưỡng hận thù giữa cuộc đời!
Im lặng một lúc, nhà sư tiếp:
- Các con ạ! Tâm từ là vậy mà không phải vậy. Thật ra, trong các con, chưa ai hiểu tâm từ là gì!
Biết là cả hai chú đều rơi vào hoài nghi to lớn, nhưng nhà sư vẫn chưa trả lời vội, người dẫn cả ba chú đến một lùm cây rậm, chỉ vào đám cỏ rạp.
- Đêm kia, thầy thấy cậu ăn trộm rình núp ở đây. Người bạn ăn đêm kiên nhẫn đợi thầy tắt đèn và đi nghỉ, nên thầy đã tắt đèn và đi nghỉ!
Không cưỡng được ý mình, Liễu Minh buột miệng:
- Thế là thầy đã tha!
- Ừ! Thầy đã tha nhưng cái tha của thầy khác với cái tha của con. Thầy tha mà không dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian. Rồi con sẽ hiểu điều ấy.
Im lặng một lúc, Chú Liễu Minh lại nói:
- Thế là con sai ít mà chú Bất Đạt sai nhiều. Thầy đã không bắt!
- Không, không phải thế đâu con! Thầy có bắt, nhưng không nuôi dưỡng hận thù, nên cái bắt của thầy khác với cái bắt của Bất Đạt!
Đầu óc của các đệ tử rối loạn như một mớ bòng bong, như tổ chim, chẳng biết đạo lý câu chuyện nó nằm ở đâu nữa!
Buổi chiều, trong giờ học Đạo, nhà sư lấy trong túi ra một lá thư bằng giấy học trò, nét chữ cứng cáp, không thẳng hàng thẳng lối, chẳng có chấm phết, sai chính tả lung tung.
Liễu Minh và Bất Đạt chăm chú đọc:
"Thưa thầy,
Thầy biết con là thằn ăn cắp không những hai vồng thắn mà còn ăn cắp một tượng Phật nhỏ bằng đồng đen, ăn cắp mười giò phong lan tước đây nữa. Thầy biết mà thầy lặng lẽ không nói với ai, cũng không hề tả lời một câu khi công an xã qua điều ta! Bây giờ thầy lại còn giúp con vốn liếng, tiền ăn tiêu mười ngày để con lên "đá bạc" khai thác đá là nghề cũ tước đây của con. Tiền thầy cho, con còn dư dã để thắm thanh dụng cụ hành nghề. Ơn đức thầy thật là kể thao cho xiết. Con hứa từ nay cho đến tọn đời, con thề làm người lương thiện để khỏi phụ tấm lòng cao cả của thầy.
Con, ..."
Lá thư bên dưới có ký tên nhưng nhà sư đã lấy kéo cắt đi rồi.
Bất Ác bây giờ mới cất giọng nói:
- Con nhận nhiệm vụ bí mật của thầy, con biết cả. Con nghe hai chú Liễu Minh và Bất Đạt cãi nhau, con chỉ cười.
Nhà sư hỏi:
- Con cười sao?
- Con cười vì cả hai chú đều sai!
- Không đâu con! Cả hai chú đều không sai!
Câu trả lời của nhà sư thật bất ngờ.
Nhà sư lại phải giải thích:
- Cả hai không sai, nhưng cả hai chú đều không đúng! Tại sao vậy? Vì trên sự tướng, tha hay bắt không quan trọng. Tha hay bắt chỉ quan trọng là khi tha để làm gì và bắt để làm gì? Tha rồi có giáo hóa được người và bắt thì có giáo hóa được người? Trên tất cả, đối với chúng ta, tha hay bắt là để học bài học giác ngộ mà thôi!
Bất Đạt chợt nói:
- Ý con cũng có thể là vậy lắm! Con bắt rồi con sẽ tìm cách giáo dục người ta nữa chứ!
Liễu Minh nhíu mày:
- Chú mà giáo dục! Chú thượng cẳng chân hạ cẳng tay thì có! Rồi chú còn bắt trói người ta mà giải qua công an! Cái bắt đó là cái bắt của người đời, chỉ tăng thêm oán thù chứ không được tích sự gì!
Bất Đạt không giận mà cười khì khì:
- Còn chú thì sao hử? Chú tha rồi chú giáo dục người ta làm sao nào, nói đi? Tha trống không cái kiểu của chú thì chi bằng kêu ba thằng ăn trộm vô khiêng chùa chiền đi hết cho khỏe! Vậy là tha theo hạnh bố thí ba-la-mật đấy!
Nhà sư khoát tay:
- Các con tranh cãi hay tranh luận đấy? Các con đừng nghĩ rằng giải pháp của thầy là tối ưu, từ đó, lấy làm thước đo để xử sự ở đời! Các con có biết rằng, tha hay bắt chỉ là sự thể hiện bên ngoài? Tha hay bắt rồi sau đó tìm cách giáo hóa, cũng chỉ là sự khôn ngoan của sự thể hiện bên ngoài ấy mà thôi. Có một cái tâm, các con ạ! Khi biết cái tâm ấy, trú nơi cái tâm ấy, thì tha hay bắt đều trở nên đúng cả vậy. Tâm ấy là tâm gì, ai biết?
Cả ba chú đồng đáp:
- Dạ, tâm từ!
- Đúng thế! Vậy thì từ rày về say, khi gặp bất cứ tình huống nào cũng phải sáng suốt, bình tĩnh. Sáng suốt là Tuệ, bình tĩnh là Định. Từ Tuệ, từ Định mà khởi tâm từ thì mọi hành động của các con đều phù hợp với giáo pháp cả, không sợ sai lầm đâu!
- Chúng con đã hiểu cả rồi. Ôi! Thật tuyệt vời thay cái bài học hôm nay!
Nhà sư từ bi nhìn ba chú, tủm tỉm cười, thầm nghĩ: "Chỉ nên dẫn cho chúng lên ngang chỗ đó thôi! Chúng đâu có hiểu rằng, tâm từ còn có trước ý, dụng ý, còn vấn đề lợi và hại, hay và dở, tốt và xấu thì tâm từ ấy đâu đã được gọi là từ vô lượng?
                                                                  Huyền Không
                                                                  Lăng Cô - Hải Vân - 1977

Tuesday, October 22, 2013

Phật là sự phản chiếu cái đang là


Khi bạn tới vị phật, ngài đơn giản soi gương bạn. Bất kì điều gì ngài nói cũng chỉ là sự phản chiếu. Nó là câu trả lời cho bạn, nhưng ngài chẳng có gì để nói về mình. Nếu vị phật khác tới ngài, họ cả hai sẽ vẫn còn tuyệt đối im lặng, hai tấm gương đối diện nhau... chẳng cái gì sẽ được phản chiếu. Các tấm gương sẽ phản chiếu lẫn nhau, nhưng không cái gì sẽ được phản chiếu. Hai tấm gương - hãy nghĩ về hai tấm gương đối diện nhau. Nếu Christ tới gặp Phật, hay Phật ở đâu đó trên các nẻo đường cuộc sống mà bắt gặp Lão Tử, họ sẽ tuyệt đối im lặng - sẽ không có tiếng vọng. 
Cho nên khi Phật nói, hãy nhớ điều đó. Ngài không nói gì đặc biệt. Ngài đơn giản phản chiếu mọi người. 
Đó là lí do tại sao vị phật không bao giờ có thể rất nhất quán. Triết gia có thể rất nhất quán. Ông ta có cái gì đó để nói. Ông ta nhớ điều đó, ông ta bám vào điều đó, ông ta chưa bao giờ nói cái gì đi ngược lại điều đó... ông ta xoay xở. Vị phật nhất định là mâu thuẫn bởi vì mỗi lần ai đó đối diện với ngài, cái gì đó khác sẽ nảy sinh. Điều đó sẽ tuỳ thuộc vào người đối diện với ngài. 
Điều đó cũng giống như tấm gương. Nếu bạn tới trước tấm gương, nó là khuôn mặt của bạn. Ai đó khác tới, thế thì nó là khuôn mặt của người đó. Khuôn mặt sẽ cứ thay đổi. Bạn không thể nói với tấm gương, 'Anh rất không nhất quán. Lúc thì anh hiện khuôn mặt đàn bà lúc thì hiện khuôn mặt đàn ông, lúc thì khuôn mặt đẹp lúc thì khuôn mặt xấu.' Tấm gương sẽ đơn giản giữ im lặng thôi. Nó có thể làm gì được? Nó đơn giản phản chiếu. Nó phản chiếu bất kì cái gì đang đó. 
Cho nên lời Phật là rất mâu thuẫn. Jesus mâu thuẫn, Phật mâu thuẫn, Krishna mâu thuẫn, Lão Tử cực kì mâu thuẫn. Hegel không mâu thuẫn, Kant không mâu thuẫn, Russell không mâu thuẫn, Khổng Tử không mâu thuẫn, Manu không mâu thuẫn. Họ có giáo điều nào đó. Họ không phản chiếu bạn. Họ có cái gì đó để nói. Họ cứ nói. Họ không như tấm gương, họ giống như ảnh chụp. Nó chẳng bận tâm bạn là ai; nó vẫn còn như vậy. Nó chết. Nó có định nghĩa và hình dạng rõ ràng. 
Phật tính là nhận biết vô hình dạng. Hãy nhớ điều đó, bằng không nhiều lần bạn sẽ bắt gặp mâu thuẫn và bạn sẽ không có khả năng hình dung ra cái gì đang xảy ra. 
Khi Phật chết, lập tức có nhiều tranh cãi, và các tín đồ chia thành nhiều giáo phái. Bởi vì ai đó đã nghe Phật nói điều này, và ai đó đã nghe điều gì đó tuyệt đối mâu thuẫn với nó. Cho nên không có khả năng nào. Làm sao một người có thể nói được tất cả những điều đó? Cho nên, ai đó phải nói dối... và mọi người bắt đầu phân chia ra. Họ phân chia ra thành nhiều trường phái. Phật bị cắt xén. Ai đó mang tay ngài, ai đó mang đầu ngài, ai đó mang chân ngài - nhưng ngài không còn là hiện tượng sống nữa. 
Bây giờ, những triết lí này rất nhất quán... rất nhất quán, rất logic - nhưng chết. Vị Phật không phải là triết gia, ngài không phải là người hệ thống hoá. Vị Phật không logic theo bất kì cách nào. Ngài đơn giản sống động, và ngài phản chiếu mọi thứ đang đó. 
Cho nên khi bạn tới vị phật, ngài trả lời bạn. Ngài không có câu trả lời cố định để trao cho bạn, ngài trả lời bạn. Ngài không có khuôn mặt công cộng. Mọi khuôn mặt của ngài đều riêng tư và chúng phụ thuộc vào bạn. Nếu bạn mang khuôn mặt đẹp tới cho ngài, bạn sẽ thấy khuôn mặt riêng của mình được phản chiếu. Và nếu bạn tới mà không có khuôn mặt nào... thuần khiết, tựa tấm gương... chẳng cái gì sẽ được phản chiếu. Thế thì Phật biến mất, ngài chẳng có gì để nói cả. 
Những người đã sống cùng Phật, họ biết. Khi họ có tâm trí riêng của mình, những tâm trí đó được phản chiếu trong ngài. Khi tâm trí họ bị loại bỏ, họ thực sự trở thành thiền nhân, và khi họ nhìn vào Phật chẳng có ai cả... chỉ cái trống rỗng, thung lũng, im lặng thuần khiết, hồn nhiên nguyên thuỷ - nhưng không có ai ở đó cả. 
Những lời này được thu thập lại, được biên soạn, bởi trường phái nào đó. Chúng rất nhất quán. Nhiều lời đã bị loại bỏ, những lời dường như mâu thuẫn. Nhiều lời đã không được được đưa vào, những lời mơ hồ. Những lời này đã được thu thập lại bởi một trường phái đặc biệt. Về sau tôi sẽ thảo luận về các nguồn khác, và nhiều lần bạn sẽ bắt gặp những mâu thuẫn. Hãy nhớ điều đó. 
Và những người ở gần tôi, họ phải hiểu điều này, tuyệt đối rõ ràng, bởi vì tôi sẽ tự mâu thuẫn mọi ngày. Điều đó tuỳ thuộc vào bầu khí hậu. Điều đó còn tuỳ... Nếu thời tiết nhiều mây, tôi nhiều mây. Nếu mặt trời chiếu sáng và trong trẻo, tôi là cách đó. 
Bạn không chỉ tới tôi với những câu hỏi, bạn còn tới với những câu trả lời. Có thể câu trả lời còn chưa được biết tới với bạn, có thể câu trả lời còn bị giấu kín trong vô thức của bạn, ẩn núp đâu đó trong bóng tối của linh hồn bạn. Câu hỏi là ý thức, câu trả lời là vô ý thức. Chức năng của tôi là làm cho câu trả lời của bạn thành hiển nhiên rõ ràng cho bạn, đem nó ra ánh sáng. Tôi nhất định phải mâu thuẫn. 
Tôi không phải là người công cộng. Tôi không quan tâm tới đám đông. Tôi chỉ quan tâm tới các đệ tử và người say mê. Điều đó nghĩa là tôi chỉ quan tâm tới mối quan hệ thân thiết. Tôi quan tâm tới bạn, và bất kì cái gì tôi nói với bạn đều được nói cho bạn và không liên quan tới người khác. Khi tôi nói một cách cá nhân, thế thì tôi đang nói với một người đặc biệt. Với người khác điều đó có thể không liên quan. Cho dù là cùng người đó, điều đó không liên quan vào ngày mai, bởi vì người đó sẽ thay đổi. 
Cuộc sống liên tục thay đổi. Và tôi chỉ nhất quán với cuộc sống chứ không cái gì khác. Cho nên tôi nhất định mâu thuẫn. Cho nên nếu đôi khi bạn bắt gặp mâu thuẫn, đừng vội vã, và đừng cố gắng hình dung ra bằng cách nào đó, và đừng cố gắng sửa lại chúng. Cứ để chúng như chúng vậy. 
Một người như Phật phải mâu thuẫn. Ngài phải chứa tất cả mọi mâu thuẫn bởi vì ngài chứa tất cả các khả năng của nhân loại. Ngài chứa tất cả mọi câu hỏi có thể có và mọi câu trả lời có thể có. Ngài chứa tất cả bề mặt có thể có và tất cả các pha có thể có. Ngài chứa toàn thể quá khứ của nhân loại, hiện tại và tương lai. 
Đó là nghĩa khi Phật nói, 'Khi ông đã tới nhà, kho bản thể bên trong nhất của ông chói sáng, tất cả sẽ được biết - tất mọi điều quá khứ, hiện tại và tương lai. Không cái gì còn lại không được biết. Trong việc biết đó mọi thứ đều được hiển lộ.' Nhưng mọi thứ... và các thứ đều không nhất quán. 
Đó là cái đẹp của thế giới - rằng mọi sự đều không nhất quán. Mọi thứ đều có phẩm chất khác nhau, cá tính khác nhau. Mọi thứ đều là sự hiện hữu theo cách riêng của chúng, và Phật đơn giản phản chiếu... sự phản chiếu, tấm gương. 
Những lời này bao giờ cũng bắt đầu bởi Phật nói. Hãy nhớ điều đó. Khi điều đó được nói, Phật nói, điều đó đơn giản nghĩa là ngài chẳng có gì để nói cả. Ngài phản xạ, ngài phản xạ lại bạn. Ngài đơn giản biểu lộ cho bạn, bạn là ai. Ngài hiển lộ bạn cho bản thân bạn. Ngài đem bạn về trung tâm riêng của bạn.
_________________
Herenow-Consciousness-Alert
Theo Cội Nguồn

Bản ngã và vô ngã (Chỉ trái chín mới rụng)


Tương truyền rằng có lần Diogenes đến thăm Socrates. Diogenes sống như một kẻ ăn xin; ông ta bao giờ cũng mặc quần áo bẩn thỉu với nhiều vết vá và lỗ hổng. Cho dù bạn có tặng cho ông ta một bộ quần áo mới ông ta cũng không dùng nó - trước hết ông ta phải làm cho nó bẩn đi, cũ đi, sờn đi và thế rồi ông ta mới mặc. Ông tới thăm Socrates và ông ta bắt đầu nói về vô ngã. Nhưng con mắt thấu suốt của Socrates phải nhận ngay ra rằng con người này không phải là người vô ngã. Cách thức ông ta nói về khiêm nhường là rất bản ngã. Tương truyền rằng Socrates đã nói: Qua bộ đồ bẩn thỉu của ông, qua những lỗ thủng trên quần áo ông, tôi chẳng thấy gì ngoài bản ngã cả. Ông nói về khiêm tốn, nhưng câu chuyện đó lại bắt nguồn từ trung tâm sâu của bản ngã.

Điều này sẽ xảy ra, đây là cách thói đạo đức giả xảy ra. Bạn có bản ngã, bạn che dấu nó qua cái đối lập; bạn trở nên khiêm tốn trên bề mặt. Khiêm tốn bề mặt này chẳng lừa được ai. Nó có thể lừa được bạn, nhưng nó không thể lừa được người khác. Từ những lỗ thủng trên bộ quần áo bẩn, bản ngã của bạn vẫn tiếp tục ló ra. Nó bao giờ cũng có đó. Đó là tự lừa dối và chẳng có gì hơn. Không ai khác bị lừa cả. Điều này xảy ra nếu bạn bắt đầu vứt bỏ bản ngã chưa chín muồi.
Điều tôi dạy sẽ có vẻ mâu thuẫn nhưng nó đúng cho cuộc sống. Mâu thuẫn là điều cố hữu trong cuộc sống. Tôi dạy bạn phải là người có bản ngã để cho bạn có thể trở thành vô ngã. Tôi dạy bạn phải là người có bản ngã hoàn hảo. Đừng che dấu nó, nếu không đạo đức giả sẽ sinh ra. Và cũng đừng đấu tranh với hiện tượng chưa chín muồi. Để cho nó chín muồi - và giúp nó, đưa nó tới đỉnh! Đừng sợ hãi - chẳng có gì phải sợ cả. Đấy chính là cách bạn đi đến hiểu cái đau khổ cực độ của bản ngã. Khi nó đã lên đến đỉnh của nó, thế thì bạn sẽ không cần tới một Phật hay tôi bảo bạn rằng bản ngã là địa ngục. Bạn sẽ hiểu nó, vì đỉnh của bản ngã sẽ là đỉnh của kinh nghiệm đau khổ của bạn, nó sẽ là cơn ác mộng. Và thế thì chẳng cần ai phải bảo bạn: Vứt nó đi! Sẽ rất khó khăn để mang nó đi tiếp.


Người ta đạt tới tri thức chỉ qua gian khổ. Bạn không thể vứt bỏ bất kì cái gì chỉ bằng lập luận logic. Bạn có thể ném bỏ cái gì đó chỉ khi nó đã trở thành nỗi đau đớn đến độ không thể mang thêm được nữa. Bản ngã của bạn còn chưa trở thành nỗi đau như thế - do đó bạn còn mang được nó. Đó là điều tự nhiên. Tôi không thể thuyết phục bạn vứt bỏ nó được. Ngay cả nếu bạn cảm thấy bị thuyết phục thì bạn sẽ giấu biến nó đi, có thế thôi.
Không thể ném bỏ được cái gì chưa chín muồi. Trái xanh vẫn bám trên cành và cây vẫn còn níu giữ quả xanh. Nếu bạn buộc nó phải tách ra thì sẽ để lại vết thương. Vết sẹo đó vẫn tiếp tục, vết thương đó vẫn còn xanh và bao giờ bạn cũng cảm thấy đau. Nhớ lấy, mọi thứ đều có thời gian để phát triển, để chín muồi, để rụng xuống và tan biến. Bản ngã của bạn cũng có thời gian. Nó cần chín muồi.

Cho nên đừng sợ là người bản ngã. Bạn có đấy, nếu không bạn đã biến mất từ lâu. Đây là cơ chế của cuộc sống: bạn phải là người bản ngã, bạn phải tranh đấu theo cách của bạn, bạn phải tranh đấu với hàng triệu ham muốn quanh bạn, bạn phải vật lộn, bạn phải sống còn.
Bản ngã là phương tiện cho sự sống còn. Nếu đứa trẻ được sinh ra mà không có bản ngã, nó sẽ chết. Nó không thể sống còn được, đó là điều không thể được, bởi vì nếu nó cảm thấy đói, nó sẽ không cảm thấy: tôi đói. Nó sẽ cảm thấy có cơn đói nhưng không liên quan gì tới nó cả. Khoảnh khắc cơn đói được cảm thấy, đứa trẻ cảm thấy: tôi đói. Nó bắt đầu khóc và làm mọi cố gắng để được cho ăn. Đứa trẻ trưởng thành qua việc trưởng thành của bản ngã.
Cho nên với tôi, bản ngã là một phần của trưởng thành tự nhiên. Nhưng điều đó không có nghĩa là bạn phải còn lại với nó mãi mãi. Nó là trưởng thành tự nhiên, và thế rồi có bước thứ hai khi nó phải bị vứt bỏ. Điều đó nữa cũng là tự nhiên. Nhưng bước thứ hai này chỉ có thể thực hiện được khi bước thứ nhất đã đi tới cao trào của nó, tới tột đỉnh của nó, khi bước thứ nhất đã đạt tới đỉnh của nó. Cho nên tôi dạy cả hai: tôi dạy bản ngã và tôi dạy vô ngã.

Trước hết, là người bản ngã, bản ngã hoàn hảo, bản ngã tuyệt đối, dường như toàn bộ sự tồn tại chỉ dành cho bạn và bạn là trung tâm; tất cả các ngôi sao đều quay quanh bạn và mặt trời mọc lên vì bạn; mọi thứ chỉ tồn tại cho bạn, chỉ để giúp bạn ở đây. Là trung tâm và đừng sợ, bởi vì nếu bạn sợ, thế thì bạn sẽ không bao giờ chín muồi. Chấp nhận nó. Nó là một phần của sự trưởng thành. Tận hưởng nó và đưa nó tới đỉnh.
Khi nó tới đỉnh rồi, bỗng nhiên bạn sẽ trở nên nhận biết rằng bạn không phải là trung tâm. Điều này đã là ảo tưởng, điều này đã là thái độ ấu trĩ. Nhưng nếu bạn là trẻ thơ thì chẳng có gì sai trong đó cả. Bây giờ bạn đã trở nên chín chắn, và bây giờ bạn thấy rằng bạn không là trung tâm.

Quả thực, khi bạn thấy rằng mình không còn là trung tâm, bạn cũng thấy chẳng có trung tâm nào trong sự tồn tại cả, hay mọi nơi đều là trung tâm. Hoặc không có trung tâm nào và sự tồn tại tồn tại như một toàn bộ, cái toàn thể không có trung tâm nào như một điểm kiểm soát, hoặc mọi nguyên tử đều là trung tâm.
Jakob Bohme đã nói rằng toàn bộ thế giới đầy các trung tâm, mọi nguyên tử đều là một trung tâm, và không có chu vi - trung tâm ở mọi nơi và chu vi không đâu cả. Hai điều này đều có thể. Cả hai đều có nghĩa là một; chỉ có lời nói là khác nhau và mâu thuẫn. Nhưng trước hết trở thành trung tâm.
Cũng giống thế này: bạn đang trong mơ; nếu mơ lên đến đỉnh thì nó sẽ tan vỡ. Bao giờ điều này cũng xảy ra - bất kì khi nào mơ lên đến tột đỉnh nó đều tan vỡ. Vậy tột đỉnh của mơ là gì? Tột đỉnh của mơ là cảm giác rằng đây là thật. Bạn cảm thấy đây là thật, không phải là mơ, và bạn cứ tiếp tục mãi đi lên đỉnh cao hơn và mơ trở thành gần như thật. Nó không bao giờ trở thành thật cả; nó trở thành gần như thật thôi. Nó tới gần thực tại đến mức bây giờ bạn không thể đi xa thêm được nữa, bởi vì thêm một bước nữa thì mơ sẽ trở thành thực - mà nó không thể trở thành thực được vì đó là mơ! Khi nó đến gần thực tại như vậy thì giấc ngủ bị phá vỡ, giấc mơ tan vỡ bạn tỉnh dậy hoàn toàn.

Điều tương tự cũng xảy ra cho mọi kiểu ảo tưởng. Bản ngã là giấc mơ lớn nhất. Nó có vẻ đẹp, có nỗi đau của nó. Nó có cực lạc, có nỗi đau của nó. Nó có cả cõi trời lẫn địa ngục, cả hai đều có đó. Mơ đôi khi đẹp đẽ và đôi khi ác mộng, nhưng cả hai đều là mơ cả.
Cho nên tôi không bảo bạn phải ra khỏi giấc mơ của mình trước khi thời điểm tới. Không, đừng bao giờ làm gì trước thời điểm này. Cho phép mọi thứ trưởng thành, cho phép mọi thứ có thời gian cho mọi việc xảy ra một cách tự nhiên. Bản ngã sẽ bị vứt bỏ. Nó cũng có thể được vứt bỏ theo cách riêng của nó. Nếu bạn đơn giản cho phép nó trưởng thành và giúp nó trưởng thành, sẽ không cần phải vứt bỏ nó.


Điều này rất sâu sắc. Nếu bạn vứt bỏ nó, bản ngã sẽ vẫn còn bên trong. Ai sẽ vứt bỏ nó? Nếu bạn nghĩ bạn sẽ vứt bỏ nó thì bạn là bản ngã, cho nên bất cứ cái gì bạn vứt bỏ đều sẽ không phải là thứ thật. Thứ thật sẽ được để dành và bạn sẽ vứt cái gì đó khác. Bạn không thể làm mình thành vô ngã được. Ai sẽ làm việc đó? Nó xảy ra, nó không phải là việc làm. Bạn trưởng thành trong bản ngã và một điểm xảy đến khi toàn bộ sự việc trở thành như địa ngục đến mức giấc mơ bị phá vỡ. Bỗng nhiên bạn thấy con ngỗng ở ngoài - nó chưa bao giờ ở trong lọ cả. Bạn chưa bao giờ là bản ngã. Nó chỉ là mơ quanh bạn. Tôi nói, mơ cần thiết, cho nên tôi không lên án nó - một phần cần thiết của trưởng thành.

Trong cuộc sống mọi thứ đều cần thiết. Không có gì là không cần thiết, không có gì có thể là không cần thiết cả. Bất kì cái gì đã xảy ra đều đã phải xảy ra. Bất kì cái gì đang xảy ra thì cũng đang xảy ra vì những nguyên nhân sâu xa nào đó. Bạn cần nó cho nên bạn có thể vẫn còn trong ảo tưởng. Nó cũng giống như cái kén giúp bạn, bảo vệ bạn, giúp bạn sống còn. Người ta không thể ở trong cái kén đó mãi được. Khi bạn sẵn sàng, phá vỡ cái kén, chui ra. Bản ngã là lớp vỏ trứng, nó bảo vệ bạn. Nhưng khi bạn sẵn sàng, phá vỡ lớp vỏ, chui ra ngoài quả trứng. Bản ngã là lớp vỏ. Nhưng đợi đấy. Vội vã chẳng ích gì nhiều; nhanh nhảu chẳng ích gì - điều đó có thể lại cản trở. Cho phép thời gian, và đừng lên án nó... bởi vì ai sẽ lên án nó?

Tới cái gọi là các thánh nhân; họ nói về khiêm tốn, khiêm nhường. Nhìn vào mắt họ: bạn sẽ không thấy bản ngã được trau chuốt như vậy ở chỗ nào khác nữa. Bây giờ bản ngã của họ đã mang trang phục tôn giáo, yoga, tính thánh nhân - nhưng bản ngã vẫn còn đó. Họ có thể không thu thập của cải, họ có thể đang tụ tập tín đồ; đồng tiền đã đổi và họ cứ đếm bao nhiêu tín đồ...
Họ có thể không theo đuổi những thứ của thế giới này, họ đi theo những thứ của thế giới kia; nhưng dù thế này hay thế kia, cả hai cũng vẫn là thế giới. Và họ thậm chí còn tham lam hơn, bởi vì họ nói những thứ nhất thời này, những thứ nhất thời của thế giới này, bao gồm các thú vui nhất thời - và họ muốn những niềm vui vĩnh cửu. Tham lam của họ là tối cao. Họ không thể được thoả mãn với những niềm vui nhất thời, họ muốn có niềm vui vĩnh cửu. Chừng nào một điều gì đó còn chưa là vĩnh cửu, họ còn chưa toại nguyện. Tham lam của họ thật sâu xa, tham lam của họ thật tuyệt đối, và tham lam thuộc về bản ngã. Tham lam là cơn đói của bản ngã.

Cho nên điều đôi khi xảy ra là thánh nhân lại còn nhiều bản ngã hơn là tội nhân, và thế thì họ xa rời điều thiêng liêng. Và đôi khi tội nhân có thể đạt tới Thượng đế dễ dàng hơn những người được gọi là thánh nhân, vì bản ngã là rào chắn. Đây đã từng là kinh nghiệm của tôi, rằng tội nhân có thể vứt bỏ bản ngã của mình dễ dàng hơn thánh nhân, bởi vì tội nhân chưa bao giờ chống lại bản ngã. Họ đã nuôi dưỡng nó, họ đã tận hưởng nó, họ đã sống với nó toàn bộ. Còn thánh nhân bao giờ cũng tranh đấu với bản ngã, cho nên họ chẳng bao giờ cho phép nó được chín muồi.

Cho nên đây là thái độ của tôi: bản ngã cần phải được vứt bỏ, nhưng điều đó có thể phải chờ đợi lâu; và bạn có thể vứt bỏ nó chỉ nếu bạn trau dồi nó. Đây là gian khổ gay go của toàn bộ hiện tượng này, bởi vì tâm trí nói: nếu chúng ta phải vứt bỏ nó, tại sao ta phải trau dồi nó? Tâm trí nói: Khi chúng ta phải phá huỷ nó, thế thì tại sao lại tạo ra nó? Nếu bạn lắng nghe tâm trí bạn sẽ gặp rắc rối. Tâm trí bao giờ cũng logic còn cuộc sống bao giờ cũng phi logic, cho nên chúng chẳng bao giờ gặp nhau. Đây là logic đơn giản, toán học thông thường, rằng nếu bạn định phá huỷ ngôi nhà này, thế thì sao lại xây nó? Tại sao lại có toàn bộ cái rắc rối này? Tại sao lại có cố gắng này và lãng phí thời gian và năng lượng? Ngôi nhà không có đó, vậy sao phải xây nó thế rồi phá nó?
Ngôi nhà không phải là vấn đề thực sự - bạn mới là vấn đề. Xây ngôi nhà bạn sẽ thay đổi, và thế rồi phá huỷ ngôi nhà bạn sẽ thay đổi hoàn toàn, bạn sẽ không còn như xưa nữa - bởi vì việc tạo ra ngôi nhà, toàn bộ quá trình của nó sẽ chứng tỏ trưởng thành của bạn. Thế rồi khi ngôi nhà đã sẵn sàng bạn kéo đổ nó. Điều đó sẽ là chuyển hoá.
Tâm trí là logic còn cuộc sống là biện chứng. Tâm trí chuyển theo đường thẳng đơn giản còn cuộc sống chuyển động bao giờ cũng nhảy từ cực nọ sang cực kia, từ điều này sang chính điều đối lập. Cuộc sống là biện chứng. Làm ra, và thế rồi cuộc sống nói: Phá đi! Được sinh ra, và thế rồi cuộc sống nói: Chết đi! Đạt tới, và thế rồi cuộc sống nói: Mất đi! Trở nên giầu có, và thế rồi cuộc sống nói: Nghèo đi! Hãy lên tới đỉnh, đỉnh Everest của bản ngã, và rồi trở thành vực thẳm của vô ngã. Thế thì bạn biết được cả hai - cả ảo tưởng lẫn hiện thực, cả ảo vọng và Brahman.
Gần như mọi ngày điều ấy đều xảy ra, ai đó tới để được điểm đạo mang tính sannyas và thế rồi tâm trí người đó bắt đầu vận hành và người đó nói với tôi: Mặc áo thụng da cam làm cho tôi có nhiều bản ngã hơn bởi vì thế thì tôi sẽ cảm thấy rằng tôi là ai đó khác, phân biệt - tôi là một sannyasin, người đã từ bỏ. Cho nên mặc áo da cam làm cho tôi thêm bản ngã, người đó nói, và tôi nói với người đó: Cứ trở thành điều đó đi! Cứ trở thành bản ngã đi, nhưng có ý thức.

Bản ngã là bệnh tật nếu bạn vô ý thức về nó, nếu bạn che dấu nó trong vô thức. Bản ngã là trò chơi nếu bạn ý thức về nó. Bạn có thể tận hưởng nó. Bạn có thể chơi nó. Có ý thức đi, lưu tâm, và chơi trò chơi này. Trò chơi cũng chẳng tồi, nhưng khi bạn quên rằng nó là trò chơi và trở thành quá nghiêm chỉnh thế thì vấn đề nảy sinh.
Cho nên tôi nói tính chất sannyas không phải là nghiêm chỉnh; nó là trò chơi - trò chơi tôn giáo, tất nhiên. Nó có luật lệ riêng của nó, bởi vì mọi trò chơi đều phải có qui tắc luật lệ; không luật lệ không thể chơi được. Cuộc sống có thể không có luật lệ, nhưng trò chơi không thể không có luật lệ.
Nếu ai đó nói: tôi không định tuân theo luật lệ này - thế thì bạn không thể chơi trò chơi đó. Bạn có thể chơi bài, thế thì bạn phải theo luật chơi. Và bạn không bao giờ nói: Những luật lệ này là tuỳ tiện, giả tạo, tại sao chúng ta không thể thay đổi được chúng? Bạn có thể thay đổi chúng, nhưng thế thì trò chơi sẽ khó khăn. Và nếu mọi cá nhân đều theo luật lệ của riêng mình, thế thì trò chơi là không thể được.
Cuộc sống là có thể! Bạn có thể chơi tuỳ thích vì cuộc sống chẳng bao giờ tin vào luật lệ - nó nằm ngoài các luật lệ. Nhưng trò chơi phải có luật lệ. Nhớ lấy, bất kì khi nào bạn thấy có luật lệ, ngay tức khắc biết rằng đấy là trò chơi. Đây là tiêu chuẩn: bất kì khi nào bạn thấy có luật lệ, ngay lập tức biết đây là trò chơi, bởi vì trò chơi tồn tại qua luật lệ.
Cho nên nếu tôi nói: Mặc áo da cam, cầm tràng hạt - đấy là trò chơi, hiển nhiên. Chơi thật tận tâm tận lực - và đừng coi đó là điều nghiêm chỉnh, nếu không bạn sẽ bỏ lỡ vấn đề. Là bản ngã - hoàn hảo, được vun đắp, được trau chuốt. Cứ làm việc trên bản ngã của bạn và làm cho nó thành bức tượng đẹp, bởi vì trước khi bạn trả lại nó cho sự tồn tại, nó phải là cái gì đó đáng giá đem tặng, nó phải là một món quà.

Thursday, September 26, 2013

[OSHO] Ham muốn là tù túng !


Ham muốn là tù túng
Ham muốn là tù túng, bởi vì khi bạn ham muốn, bạn trở thành phụ thuộc vào cái khác, vào đối tượng được ham muốn. Dù nó là đàn bà, tiền, đàn ông. quyền lực, danh vọng, không thành vấn đề - nó là ham muốn, và ham muốn đem tới tù túng. Tại sao? 
Điều đó đơn giản. Khi bạn ham muốn cái gì đó, niềm vui của bạn phụ thuộc vào cái đó. Nếu nó bị lấy đi, bạn khổ; nếu nó được trao cho bạn, bạn sung sướng, nhưng chỉ trong khoảnh khắc đó thôi. Điều đó nữa cũng phải được hiểu. Bất kì khi nào ham muốn của bạn được đáp ứng chỉ trong khoảnh khắc đó bạn cảm thấy niềm vui. Nó là phù du, bởi vì một khi bạn có nó rồi, tâm trí lại bắt đầu ham muốn nhiều hơn, về cái gì đó khác. Tâm trí tồn tại trong ham muốn; do đó tâm trí không bao giờ có thể để bạn không có ham muốn. Nếu bạn không có ham muốn tâm trí chết ngay lập tức. Đó là toàn thể bí mật của thiền. 
Tạo ra vô ham muốn và tâm trí chết, chết mãi mãi, không bao giờ quay lại. Nếu ham muốn có đó, tâm trí sẽ tới. Ham muốn là gốc rễ từ đó tâm trí bước vào. Ham muốn là chất nuôi dưỡng của nó, thức ăn của nó, chính cuộc sống của nó, hơi thở của nó. Cho nên tâm trí không thể bỏ bạn không ham muốn. Nếu bạn ham muốn Thượng đế - ngay cả Thượng đế - và bạn gặp Thượng đế, đó sẽ chỉ là trong một khoảnh khắc mà bạn sẽ cực lạc. Thế thì bỗng nhiên tâm trí sẽ nói, "Bây giờ cái gì đây? Bây giờ mục đích này được đạt tới rồi. Phóng chiếu mục đích tương lai đi. Mình được kết thúc với Thượng đế rồi, bây giờ không còn gì hơn trong đó." 
Ham muốn được đáp ứng chỉ trong một khoảnh khắc sẽ cho bạn sự giảm nhẹ, và sự giảm nhẹ đó cũng phải được hiểu. Trong khoảnh khắc của ham muốn được đáp ứng có sự giảm nhẹ. Có sự giảm nhẹ bởi vì trong khoảnh khắc nhỏ đó bạn vô ham muốn. Vô ham muốn là vui vẻ. Khi một ham muốn được đáp ứng và trước khi tâm trí phóng chiếu ham muốn khác, giữa hai ham muốn này có một khoảng hở nhỏ không có ham muốn nào. Khoảnh khắc đó là của thiền. 
Đó là cách thiền đã được phát hiện ra. Nó đã không được bàn tán tới, nó đã không được các triết gia, các nhà tư tưởng lớn trao cho. Nó là quan sát đơn giản, quan sát khoa học, rằng bất kì khi nào ham muốn không có đó... Bạn muốn nhà đẹp và bạn có nó. Khi bạn mở cửa của ngôi nhà mới, trong một khoảnh khắc bạn được mang tới một thế giới khác, trong một khoảnh khắc không có ham muốn. Một ham muốn mong ước từ lâu, lâu rồi đã được đáp ứng. Sẽ mất chút thời gian cho tâm trí... 
Tâm trí cần thời gian, nhớ lấy. Tâm trí không thể vận hành được nếu không có thời gian; do đó tâm trí tạo ra thời gian. Không có thời gian, không có không gian cho tâm trí vận hành. Tâm trí sẽ cần chút ít thời gian. Thực tế, tâm trí bị choáng. Nó đã không hi vọng rằng ham muốn sẽ được đáp ứng. Mục đích ở xa xăm thế, ngôi nhà lớn thế, và điều đó gần như là không thể được, nhưng bởi vì nó được hoàn thành, tâm trí bị choáng. Tâm trí đang thu thập lại bản thân nó trong khi bạn đang mở cánh cửa ngôi nhà mới, và bạn đi vào ngôi nhà mới và niềm vui sâu sắc nảy sinh trong bạn. Bạn nói, "Aha!" Thời gian trôi qua khi bạn nói "Aha!" là đủ rồi, và tâm trí đã phóng chiếu ham muốn khác. 
Tâm trí nói, "Nhà đẹp đấy, nhưng bể bơi ở đâu? Nhà đẹp đấy, nhưng vườn không được chăm sóc." Bạn sẽ phải tạo ra vườn mới, bể bơi đẹp, và lần nữa toàn thể quá trình đặt ra, lần nữa bạn ở trong bánh xe của tâm trí. Nhưng một khoảnh khắc đã không có ham muốn, đã có vui vẻ. Vui vẻ bao giờ cũng có khi không có ham muốn. Bất kì khi nào có ham muốn, vui vẻ biến mất. Ham muốn giữ bạn là tù nhân. 
Do đó Phật nói: Khi một người ham muốn tâm trí người đó bị kết sít lại - và không có mấy khác biệt giữa ham muốn này và ham muốn khác. Cho nên tâm trí không mấy lo nghĩ về điều bạn ham muốn. Lo nghĩ của tâm trí chỉ là một điều thôi: rằng bạn phải ham muốn. Ham muốn mọi thứ đi! Bạn có thể bắt đầu sưu tập tem, điều đó sẽ có tác dụng - nhưng ham muốn. Bây giờ, tem là vô dụng, nhưng có nhiều người cứ sưu tập tem. 
Tôi biết một người sưu tập bao thuốc lá. Anh ta có bộ sưu tập đến thế... anh ta sẵn sàng mua với bất kì giá nào. Nếu bao thuốc lá mới có thể được cho anh ta, anh ta sẵn sàng... Anh ta thu thập các nhãn bao thuốc, và anh ta cứ đi khoe với mọi người với niềm vui lớn thế, cứ dường như anh ta đã chinh phục thế giới. 
Tôi biết một người khác cứ viết vào trong mọi cuốn sách, "Rama, Rama, Rama." Trong nhiều năm ông ấy đã từng làm điều đó - gần sáu mươi năm - bởi vì ông ấy tám mươi tuổi rồi. Cả nhà ông ấy đầy những sách trong đó chỉ viết mỗi một từ, "Rama," và ông ấy cứ đi khoe với mọi người và ba hoa: "Trông cả triệu lần tôi đã viết 'Rama'." 
Khi tôi là khách trong nhà ông ấy, ông ấy cũng chỉ cho tôi xem. Tôi nói. "Ông phải là đồ ngu. Ông làm phí hoài mọi cuốn sách này. Ông đáng phải cho trẻ em những cuốn sách này, những trẻ tội nghiệp. Chúng sẽ dùng sách theo cách tốt hơn nhiều. Ông đã đơn giản làm phí hoài giấy, mực, thời gian của ông, cuộc sống của ông. Và hơn nữa, bất kì khi nào ông bắt gặp Rama, ngài sẽ đánh vào đầu ông đấy, bởi vì ông phải liên tục làm phiền nhiễu ngài: 'Rama, Rama, Rama'. Ngày nọ, ngày kia ông cứ gây phiền nhiễu cho ngài. Tránh ngài đi; nếu ông gặp Rama ở bất kì đâu, trốn ngay." 
Tôi hỏi ông ấy, "Ông có biết tại sao ngài bao giờ cũng mang cung theo mình không? Nó là để dành cho những người sùng kính như ông đấy. Ngài bao giờ cũng sẵn sàng với chiếc cung và tên, cho nên ông không thể thoát được." 
Ông ta choáng. Ông ta nói, "Ông nói gì vậy? Ông có đùa không đấy? Tôi vẫn từng làm hành động tôn giáo. Mọi người đều ca ngợi nó, các thánh nhân lớn đã tới và ca ngợi nó." 
Tôi nói, "Những người đó phải đã là những kẻ ngu như ông." 
Tâm trí có thể ham muốn bất kì cái gì. Bây giờ, ông ấy không thu thập tiền, nhưng ngày một nhiều cái tên Rama... Nó là cùng trò chơi thôi. 
Một người tới gặp luật sư của mình bàn về việc li hôn. 
"Ông lấy giá bao nhiêu để giải quyết vụ như của tôi?" ông ta hỏi. 
"Tôi thực sự không thích giải quyết các vụ li hôn," viên luật sư của ông ta đáp. "Sao ông muốn được li hôn?" 
"Bởi vì tôi muốn lấy em vợ tôi." 
"Này, vụ giống như thế có thể khá om sòm đấy. Nó có thể tốn cho ông hàng nghìn đô la đấy. Sao ông không về nhà và nghĩ kĩ về nó đi." 
Thế là người này về nhà, và hôm sau anh ta gọi điện cho luật sư của mình. "Tôi đã nói toàn thể sự việc cho anh bạn tốt nhất của tôi," anh ta nói. "Tôi đã quyết định không li hôn chút nào." 
"Điều đó là tốt," luật sư của anh ta nói. "Kể cho tôi đi, anh bạn anh đã nói gì mà làm anh đổi ý thế?" 
"Thế này, anh ấy bảo tôi anh ấy đã đi chơi với vợ tôi và cô em vợ tôi nữa, và chẳng có gì khác biệt giữa họ cả." 

Ham muốn tinh vi cuối cùng
Bạn đã từ bỏ thế giới: bạn đã từ bỏ tham, bạn đã từ bỏ tiền, bạn đã từ bỏ quyền, bạn đã từ bỏ mọi thứ của bên ngoài. Bạn thậm chí đã từ bỏ thân thể bạn, bạn thậm chí đã từ bỏ tâm trí bạn, nhưng từ bỏ cuối cùng là từ bỏ kaivalya, từ bỏ bản thân kaivalya, từ bỏ bản thân moksha, từ bỏ bản thân niết-bàn. Bây giờ bạn từ bỏ ngay cả ý tưởng về giải thoát, bởi vì điều đó nữa lại là một ham muốn. Và ham muốn, dù đối thể của nó là bất kì cái gì, đều là như nhau. Bạn ham muốn tiền, tôi ham muốn moksha. Tất nhiên, đối thể của tôi là tốt hơn đối thể cả bạn, nhưng dầu vậy ham muốn của tôi là hệt như ham muốn của bạn.
Ham muốn nói, "Tôi không hài lòng như tôi đang vậy. Nhiều tiền hơn được cần, thế thì tôi sẽ được hài lòng. Nhiều giải thoát hơn được cần tới, thế thì tôi sẽ được hài lòng." Phẩm chất của ham muốn là như nhau, vấn đề của ham muốn là như nhau. Vấn đề là ở chỗ tương lai được cần tới: "Như tôi đang vậy, nó là không đủ, cái gì đó thêm nữa được cần tới. Bất kì cái gì đã xảy ra cho tôi đều là không đủ. Cái gì đó vẫn phải xảy ra cho tôi, chỉ thế thì tôi mới có thể hạnh phúc." Đây là bản chất của ham muốn: bạn cần nhiều tiền hơn, ai đó cần ngôi nhà lớn hơn, ai đó nghĩ nhiều hơn về quyền lực, chính trị, ai đó nghĩ về vợ tốt hơn hay chồng tốt hơn, ai đó nghĩ về nhiều giáo dục hơn, nhiều tri thức hơn, ai đó nghĩ về nhiều quyền năng huyền bí hơn, nhưng điều đó không tạo ra khác biệt. Ham muốn là ham muốn, và vô ham muốn là được cần.
Bây giờ điều ngược đời: Nếu bạn tuyệt đối vô ham muốn - và trong vô ham muốn tuyệt đối, bao hàm cả ham muốn về moksha - một khoảnh khắc tới khi bạn không ham muốn ngay cả moksha, bạn không ham muốn ngay cả Thượng đế. Bạn đơn giản không ham muốn, bạn hiện hữu, và không có ham muốn. Đây là trạng thái vô ham muốn. Moksha xảy ra trong trạng thái này. Moksha không thể được ham muốn, bởi chính bản chất của nó, bởi vì nó tới chỉ trong vô ham muốn. Giải thoát không thể có được với ham muốn. Nó không thể trở thành động cơ vì nó xảy ra chỉ khi mọi động cơ đã biến mất. Bạn không thể làm Thượng đế thành đối thể của ham muốn của bạn được bởi vì tâm trí ham muốn vẫn còn lại một cách tệ hại. Tâm trí ham muốn vẫn còn lại một cách không linh thiêng, tâm trí ham muốn vẫn còn lại một cách trần tục. Khi không có ham muốn, thậm chí không có ham muốn về Thượng đế, đột nhiên Ngài bao giờ cũng đã có đó rồi. Mắt bạn mở ra và bạn nhận ra Ngài.

Ham muốn vận hành như rào chắn. Và ham muốn cuối cùng, ham muốn tinh vi nhất, là ham muốn được giải thoát. Ham muốn cuối cùng, tinh vi là ham muốn được vô ham muốn.
- Theo Trung Tâm Hộ Tông

One time one meeting


Nếu bạn có dịp bước vào một ngôi trà thất có lẽ bạn sẽ nhìn thấy một tờ thư pháp treo trên tường với dòng chữ “nhất kỳ nhất hội”, one time one meeting.  Đó cũng là một câu châm ngôn trong Trà đạo.  Chúng ta chỉ có thể gặp nhau, tiếp xúc nhau, một lần duy nhất mà thôi.
Tuy trong cuộc sống ta có thể đã gặp nhau nhiều lần, đã cùng ngồi uống với nhau bao nhiêu tách trà, nhưng mỗi lần là một lần hoàn toàn mới.  Bao giờ cũng chỉ có thể là một lần gặp mặt này thôi và chỉ là một tách trà này mà thôi.  Không thể là một lần thứ hai.  Và nếu ta biết có mặt trọn vẹn với giây phút ấy, ta mới có thể tiếp xúc được với sự tự nhiên chân thật của sự sống.
Bà Maurine Stuart là một giáo thọ thuộc dòng thiền Lâm Tế, và cũng là một nhạc sĩ trình tấu piano, có chia sẻ như sau:
“Chúng ta bao giờ cũng là đang bắt đầu.  Lúc nào cũng sẽ là lần đầu tiên của mình.  Khi chơi piano, tôi thường đánh nhạc đến dấu hiệu lặp trở lại (repeat sign) trong bài nhạc. Thật ra ta có thể nào lặp lại đoạn nhạc ấy được chăng?  Mỗi khi dạy học trò mình chơi piano, và khi đánh đến dấu lặp trở lại ấy, tôi bảo các em rằng, không có sự lặp lại.  Chúng ta trở lại đầu của đoạn nhạc ấy, nhưng nó sẽ không bao giờ giống y như trước.  Lúc nào cũng sẽ là mới tinh khôi.”
Và sự sống của ta cũng vậy.  Mà thật ra đó mới chính là cái ý nghĩa chân thật, sâu xa của sự tự nhiên, nó khác biệt với những phản ứng và lối hành xử máy móc có điều kiện kia biết là bao nhiêu!  Tuy hoàn cảnh có thể không thay đổi, năm tháng vẫn vậy, cũng tách trà ấy, cũng trời mây ấy, nhưng những điều kiện chung quanh ta, và ngay chính ta, chắc gì cũng vẫn là như xưa? 
Và nếu như ta không thật sự có mặt thì mình có thể nào sống với một lòng say mê tự nhiên như ta nghĩ được chăng?  Vì cuộc sống không bao giờ có một sự lặp lại, nhưng nhiều khi ta vẫn cứ ôm ấp và tiếp nối mãi những nỗi muộn phiền xưa cũ của mình...

Biết ơn giây phút này

Trong đạo Phật tình thương là một năng lượng lớn, có thể ôm ấp và chuyển hóa được khổ đau.  Sự giác ngộ không làm cho đức Phật trở nên dửng dưng bất động, không còn cảm xúc nữa, mà ngược lại, nó khiến tấm lòng của ngài trở nên rộng lớn hơn.  Đạo Phật gọi đó là tâm từ, metta.
Và tâm từ ấy cũng thường được biểu hiện bằng một thái độ biết ơn.
 Trong kinh có ghi lại rằng, sau khi thành đạo dưới cội bồ đề, đức Phật đã đứng yên một khoảng xa để chiêm bái cây bồ đề trong suốt một tuần.  Phật bày tỏ lòng tri ân sâu xa của mình đối với cây bồ đề đã che chở nắng mưa cho ngài trong suốt thời gian tầm đạo.  Có lẽ bài pháp đầu tiên đức Phật dạy cho cuộc đời, là một bài học về lòng biết ơn. 
    Trong Kinh Tăng Chi bộ, đức Phật cũng thường khen ngợi những người biết nhớ ơn khi họ tiếp nhận một điều gì.  Mà trong cuộc sống này chúng ta được tiếp nhận nhiều lắm, phải không bạn!


Monday, September 23, 2013

Những bộ Kinh vô hình

Tetsugen, một sinh viên môn Thiền, quyết thực hiện một công trình lớn: in bảy ngàn bản kinh Phật, vốn cho tới lúc ấy, mới có bản văn bằng tiếng Tàu.
Anh rảo khắp nước Nhật để quyên góp tiền bạc cho dự án của mình. Một vài người giàu tặng anh tới cả trăm đồng vàng, nhưng phần lớn anh nhận là những đồng xu nhỏ của những người làm nông. Tetsugen biểu lộ một lòng biết ơn như nhau đối với người cho, không kể ít nhiều.
Sau mười năm đi đây đi đó, cuối cùng anh đã quyên đủ số tiền cần thiết cho dự định. Đúng lúc đó, nước lũ sông Uji dâng cao khiến cho hàng ngàn người không cửa không nhà cũng như không thức ăn. Tetsugen liền đem tất cả số tiền quyên góp cho dự án mình ấp ủ bấy lâu để để trợ giúp dân nghèo.
Rồi anh lại quyên góp để gây vốn. Phải mất nhiều năm, anh mới có đủ số tiền cần thiết. Một cơn dịch lan tràn khắp đất nước, và thế là Tetsugen lại đem tất cả số tiền đã gom để giúp những người khốn khổ.
Rồi một lần nữa anh lại lên đường gom góp và hai mươi năm sau, ước mơ kinh Phật xuất bản bằng tiếng Nhật cuối cùng trở thành hiện thực.
Bản in cho lần xuất bản đầu tiên của kinh Phật hiện được trưng bày tại tu viện Obaku, Tokyo. Người Nhật kể cho con cháu họ rằng, Tetsugen đã xuất bản kinh Phật cả thảy ba lần, hai lần đầu là những bộ kinh vô hình, vượt trội lần thứ ba.
(Sưu tầm)
Trung Tâm Hộ Tông

Thực tập

… Ta hãy thực tập với những gì đang xảy ra với chính ta ngay trong giây phút này, với tư tưởng của mình, cảm xúc của mình, với những bất an, và với cả những suy nghĩ vẩn vơ của ta. Nó có nghĩa là ta hãy thực tập bằng con người thật của chính mình, ngay nơi đây, ngay trong giây phút này. Đó mới thật sự là một công phu chân thật. Và năm điều sau đây có thể giúp chúng ta thực hiện được việc ấy:
1. Giây phút hoàn hảo nhất để thực tập là ngay bây giờ - chứ không phải là ngày mai hay tuần tới, cũng không phải là khi nào ta bớt bận rộn hơn, mà phải là ngay lúc này. Trong giây phút này, ta đâu có thiếu thốn một điều kiện nào đâu? Pháp môn lúc nào cũng rộng mở. Tất cả những "nhưng mà", "tại vì" trên cuộc đời này chỉ là những sự bào chữa giữ cho ta không gặp gỡ và tiếp xúc được với giờ phút hiện tại.
2. Nơi chốn hoàn hảo nhất để thực tập là chính ngay nơi mà ta đang có mặt - chứ không phải là trong một thiền viện nào ở Thái Lan hay Nhật Bản, cũng không phải ở một trung tâm tu học, hay trên tọa cụ của mình. Ta thì lúc nào cũng muốn so sánh. Nhưng thay vì đòi hỏi, bạn hãy thực tập ngay ở đây, ở nơi bạn đang đứng, đang đi, hay đang ngồi. Hãy bắt đầu thực tập.
3. Lời dạy hoàn hảo nhất là những gì đang có mặt ngay ở trước ta - Thiền sư Richard Baker Roshi có lần kể lại một giấc mơ của ông. Trong mơ ông thấy mình đang suy nghĩ cố tìm kiếm câu trả lời cho một vấn đề nào đó, và ngay lúc ấy điện thoại reo vang. Ông làm lơ đi, không trả lời, và tiếp tục cố gắng tập trung tìm cho ra câu trả lời. Đến cái reng thứ ba mươi thì ông nhấc điện thoại lên, bên kia đầu dây có người nói cho ông biết câu trả lời mà ông đang mải mê tìm kiếm. Cái có mặt ngay trước mắt mà ông cho rằng không cần thiết, lại chính là điều mà ông đang tìm kiếm.
4. Vị thầy hoàn hảo nhất là người đang có mặt với ta - Vì đó là một mối tương quan có thật, chứ không phải là một sự so sánh, hơn thua. Chúng ta vẫn có thể học được rất nhiều từ những vị thầy hay những người bạn vẫn còn có những lầm lỗi.
5. Người học trò hoàn hảo nhất chính là ta - Ta có hết tất cả trong ta những điều kiện và yếu tố cần thiết cho sự thực tập. Bạn là một người hoàn toàn có đầy đủ khả năng, và khi bạn ý thức được điều này, bạn sẽ tìm thấy được những sự hỗ trợ cần thiết cho sự thực tập của mình. Và đây là điều quan trọng nhất trong năm điều.
(Trích trong Competing With The Incomparable - Michael Wenger 
Nguyễn Duy Nhiên phỏng dịch)
Trung Tâm Hộ Tông

Ý CHÚA

Lời của cậu bé Jason Gaes nói khi đang bị ung thư lúc cậu 11 tuổi. Những câu này được trích trong cuốn "Ý nghĩa của cuộc sống" (The Meaning of Life) mà tạp chí "Life" xuất bản năm 1988. Khi cuốn sách ra đời, Jason không còn nữa.
  
"Cháu nghĩ rằng, thật khó có thể lí giải được tại sao chúng ta lại được sinh ra trên thế giới này. Nhưng có lẽ Chúa đã sinh ra chúng ta vì một lí do khác. Nếu Chúa cho cháu một giọng hát tốt, nghĩa là Người muốn cháu hát. Hoặc nếu Chúa muốn cháu cao đến 2 mét, nghĩa là Người muốn cháu chơi cho đội bóng rổ Lakers hoặc Celtics.
Khi bạn Kim của cháu chết vì ung thư, cháu hỏi mẹ cháu, rằng nếu Chúa đã muốn Kim chết khi cô ấy chỉ mới 6 tuổi, thì tại sao Người còn cho cô bé ra đời làm gì. Nhưng mẹ bảo, kể cả khi Kim mới 6 tuổi, thì cô bé cũng đã thay đổi cuộc đời của nhiều người. Điều đó có nghĩa là Chúa muốn em trai hay em gái của Kim lớn lên và trở thành những nhà khoa học để chữa ung thư, và họ quyết định trở thành như thế là vì Kim. Cũng như cháu vậy. Cháu luôn tự hỏi, rằng tại sao Chúa lại chọn cháu để bắt cháu bị ung thư. Có lẽ là bởi vì Người muốn cháu trở thành bác sĩ để chăm sóc cho những đứa trẻ bị ung thư giống cháu. Khi chúng nó bảo, “Bác sĩ Jason, cháu sợ lắm” hoặc “Bác sĩ không biết được rằng, là đứa trẻ duy nhất trọc đầu ở trường nó kì thế nào đâu”, cháu có thể nói, “Ừ, bác cũng thế đấy. Bác cũng trọc hết cả đầu vì ung thư rồi”.

Chỉ cần ta hiểu được ý nghĩa của cuộc sống là gì thì sẽ không sợ chết. Chết là điều duy nhất ta không thể tránh được trong cuộc đời. Nếu sống có ý nghĩa, cái chết của chúng ta sẽ không bao giờ là vô nghĩa...

Hãy quan sát

Hãy quan sát
Đừng bắt bạn vô ngã mà hãy quan sát cái ngã khi nó khởi. Đừng cố gắng hạ mình, khiêm tốn mà hãy quan sát cái tự cao khi nó khởi... Đừng ép mình thay đổi mà để thay đổi một cách tự nhiên tự giác tự chủ. Đừng ép buộc gì cả, đừng khống chế gì hết... chỉ quan sát khách quan. Đừng diệt hết các ngọn sóng trên mặt biển mà chỉ cần không chạy theo nữa.

Món quà vĩ đại sẵn có trong tâm mỗi người  
Nếu bạn chỉ dừng sự suy nghĩ trong phút chốc và ngồi lại để quan sát đầu óc tâm trí mình, bạn sẽ ngạc nhiên thấy rằng bạn đang được bình an. Dù bạn đồng ý với tôi điểm nầy, bạn vẫn có thể biện minh rằng sự bình an nầy chỉ là tạm thời. Cứ cho là như vậy đi. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào tâm trạng an tĩnh nầy, dù nó có tạm bợ hay không, bởi vì nó đã đến với chúng ta mà chúng ta không cần cố gắng chút nào để được định tâm, an tâm. 
Bạn đã sanh ra với bản chất bình an, định tĩnh nầy của tâm thức; bằng không thì bạn chẳng được như thế nầy, phải không? Bạn không cần chạy quanh quẩn học các phương pháp để đạt được sự bình an, định tĩnh nầy, cũng không cần học hỏi nơi ai hay ở quyển sách nào để làm cho sự bình an định tĩnh nầy có thể có mặt bên trong bạn. Nói cách khác, cái 'tôi' của bạn không có liên hệ gì với nó. Bình an là bản chất tự nhiên của tâm thức trong mỗi người chúng ta. Bình an đã có mặt ở đó kể từ ngày chúng ta sanh ra và nó sẽ tiếp tục ở đó cho tới ngày chúng ta chết đi. Ðó là món quà vĩ đại cho chúng ta; như vậy tại sao chúng ta lại nghĩ rằng mình không được bình an định tĩnh trong tâm?
 Trung Tâm Hộ Tông (Sưu tầm)

Friday, June 7, 2013

Ba cánh cổng của sự thông thái


Một vị vua có duy nhất một người con trai là một hoàng tử dũng cảm tài giỏi và thông minh. Nhà vua gửi anh ta tới gặp một nhà thông thái để hoàng tử được mở mang nhận thức.
-“Xin hãy khai sáng cho con đường của con”, hoàng tử van nài.
-“Những lời nói của ta sẽ tan biến như những bước chân trên cát, nhà thông thái đáp.
Tuy nhiên, ta sẽ cho con vài chỉ dẫn. Trên đường đi, con sẽ đi qua ba cánh cổng. Hãy đọc những câu viết trên đó. Con sẽ không cưỡng lại được yêu cầu phải làm theo những lời đó. Đừng tìm cách bỏ qua, con sẽ buộc phải sống nữa sống mãi trong điều đó. Ta không thể nói gì hơn. Con phải nếm trải tất cả bằng con tim và thể xác, giờ thì con đi đi. Hãy đi theo con đường ngay phía trước con.”

Nhà thông thái biến mất và hoàng tử bắt đầu bước đi trên đường đời. Chẳng mấy chốc hoàng tử băng qua một cánh cổng lớn trên đó có thể đọc thấy rằng:

“THAY ĐỔI THẾ GIỚI”
-“Đây chính xác là điều mình dự định làm, hoàng tử nghĩ thầm, vì có những điều thú vị và không thú vị trên thế giới này.”
Và anh ta bắt đầu cuộc đấu tranh đầu tiên. Được dẫn dắt bởi lý tưởng, nhiệt huyết, và sức mạnh thúc đẩy phải đương đầu với thế giới, anh ta chịu trách nhiệm, chinh phục, đưa ước vọng đến thực tế. Anh ta trải qua niềm vui và hứng khởi của kẻ đi chinh phục, nhưng con tim không được thanh thản. Anh ta xoay xở thay đổi một số điều nhưng những điều khác thì không thay đổi được.
Nhiều năm trôi qua. Một ngày kia, anh ta gặp lại nhà thông thái:
-“Con đã học được gì trên đường đời?”
-“Con đã học, hoàng từ đáp, cách hiểu được điều gì trong khả năng của con và điều gì ngoài khả năng, hiểu điều gì thuộc về con và điều gì thì không”.
-“Tốt lắm, nhà thông thái nói. Hãy dùng sức mạnh của con để hành động dựa trên điều con có thể. Hãy quên những điều con không thể làm.”
Và nhà thông thái biến mất. Một lúc sau hoàng tử đi qua cánh cổng thứ hai. Người ta có thể đọc thấy rằng:

“THAY ĐỔI NGƯỜI KHÁC”
-“Đây chính xác là điều mình dự định làm, hoàng tử nghĩ thầm. Những người khác mang đến niềm vui và sự thú vị, nhưng cũng gây cho ta nỗi đau va sự cay đắng và sự thất vọng”.
Và anh ta kháng cự lại tất cả những gì làm xáo trộn hay trái ý anh ta. Anh ta đấu tranh nhằm thay đổi tâm hồn họ, và sửa chữa những lỗi lầm của họ. Đây chính là cuộc chiến thứ hai của anh ta.
Nhiều năm nữa trôi qua. Một ngày nọ, khi anh ta đang trầm tư về sự vô ích khi nỗ lực thay đổi người khác, anh ta đi lướt qua nhà thông thái và ông ta hỏi hoàng tử:
-“Con đã học được gì trên đường đời?”
- “Con đã học, hoàng tử đáp, rằng những người khác không phải là nguồn vui hay nỗi đau buồn, thành tựu hay thất bại. Họ chỉ ở đó để làm con nhận thức. Chính con tạo nên cảm xúc cho chính mình.”
-“ Con nói đúng, nhà thông thái nói. Mặc dù điều mà họ đánh thức trong con, họ đã làm con nhận thức chính con. Hãy tỏ lòng biết ơn đối với những ai làm con vui sướng và hạnh phúc. Nhưng cũng phải biết ơn những ai luôn làm con tổn thương và thất vọng, cuộc sống sẽ dạy con. Con còn phải học, và còn cả con đường dài trước mặt.”
Và nhà thông thái biến mất. Một lúc sau, hoàng tử đi qua một cánh cửa nơi có thể đọc thấy những lời rằng:

“THAY ĐỔI CHÍNH BẠN”
-“Nếu chính tôi là nguyên nhân của nhiều vấn đề, đây là điều mà tôi phải giải quyết” hoàng tử nghĩ thầm.
Và anh ta bắt đầu cuộc đấu tranh thứ ba. Anh ta cố chuyển biến tính cách của mình, tranh đấu với sự không hoàn hảo của mình, xoá bỏ khuyết điểm, và thay đổi mọi thứ không phù hợp với lý tưởng của anh ta.
Sau nhiều năm tranh đấu đôi khi thành công đôi khi thất bại, hoàng tử đã gặp lại nhà thông thái và ông ta hỏi hoàng tử:
-“Con đã học được gì trên đường đời?”
-“Con đã học, hoàng tử đáp, rằng một số điều có thể cải thiện được, những điều khác ngược lại và không thể thay đổi được.”
-“Tốt lắm, nhà thông thái nói.
-“Vâng, hoàng tử tiếp tục, nhưng con thấy mệt mỏi khi chống lại mọi thứ và chống lại chính mình. Điều này sẽ không bao giờ kết thúc phải không? Khi nào con sẽ được nghỉ ngơi? Con muốn ngừng đấu tranh, muốn từ bỏ, bỏ hết.”
-“ Đây dường như là bài học sắp tới của con, nhà thông thái nói. Nhưng trước khi tiến xa hơn nữa, hãy đi vòng quanh cánh cửa và nhìn lại con đường mà con đã bước qua”
Và nhà thông thái lại biến mất. Khi hoàng tử nhìn lại phía sau, anh ta thấy cánh cửa thứ ba và nhận ra rằng có thể đọc một lời tiên tri khác ở phía sau:

“CHẤP NHẬN CHÍNH BẠN”
Hoàng tử tự hỏi tại sao anh ta không nhận ra lời chỉ dẫn này khi băng qua cánh cửa đầu tiên, ở phía đối diện.
-“Khi ta mải tranh đấu, ta trở nên mù, anh ta tự nhủ.”
Hoàng tử cũng nhìn thấy, trải dài suốt mặt đất chung quanh anh ta, mọi thứ mà anh ta loại bỏ và đấu tranh bên trong mình:những sai lầm, những mặt xấu, những giới hạn, và tất cả tính ác. Và rồi anh ta học được làm thế nào để tổ chức chúng, chấp nhận chúng và yêu quý chúng. Anh ta đã học cách yêu chính mình mà không so sánh, phán xét, trách móc.
Hoàng tử lại gặp nhà thông thái và ông ta hỏi:
-“Con đã học được gì trên đường đời?”
-“ Con đã học, hoàng tử đáp, rằng ghét bỏ hay chối bỏ chính mình để mà kết án chính mình sẽ không bao giờ có được sự yên bình cho chính mình. Con đã học cách chấp nhận chính mình, một cách hoàn toàn, một cách vô điều kiện.”
-“Tốt lắm, nhà thông thái nói, đây chính là chặng đường đầu tiên của sự thông thái. Giờ thì con hãy đi qua cánh cửa thứ ba một lần nữa.”
Ngay khi hoàng tử đến phía bên kia của cánh cửa, anh ta nhìn thấy mặt sau của cánh cửa thứ hai và nó được ghi rằng:

“CHẤP NHẬN NHỮNG NGƯỜI KHÁC”
Xung quanh mình hoàng tử nhận thấy những người mà anh ta đã gặp trong cuộc đời; những người mà anh ta đã yêu, những người anh ta ghét. Những ai mà anh ta đã giúp đỡ, những người mà anh ta tranh đấu. Nhưng thật bất ngờ, anh ta không thể nhìn thấy những sai lầm của người khác, những sai lầm đã làm anh ta phiền lòng và khiến anh ta phải tranh đấu.
Hoàng tử đến gặp nhà thông thái một lần nữa.
-“Con đã học được gì trên đường đời?”sau cùng nhà thông thái hỏi.
“Con đã học, hoàng tử đáp, rằng nếu con hoà thuận với bản thân, con sẽ không trách móc những người khác, không sợ hãi họ. Con phải học cách chấp nhận những người khác hoàn toàn và không điều kiện.”
-“Tốt lắm,” nhà thông thái nói. Đây là chặng đường thứ hai của sự thông thái. Con có thể đi qua cánh cửa thứ hai.
Khi hoàng tử đến phía bên kia, anh ta nhìn thấy phía sau cánh cửa đầu tiên và đọc thấy:

“CHẤP NHẬN THẾ GIỚI”
-“Thật kì lạ, hoàng tử nghĩ thầm, “Tại sao mình không nhìn thấy lời chỉ dẫn này lần đầu?”
Hoàng tử nhìn quanh mình và nhận thấy thế giới mà anh ta cố chinh phục, biến chuyển, và thay đổi.Anh ta bị choáng ngợp bởi sự tươi sáng và vẻ đẹp của mọi vật. Bởi sự tuyệt mỹ. Và vì nó chính là cùng một thế giới như trước đây. Có phải thế giới đã thay đổi, hay nhận thức đã thay đổi?
Hoàng tử lại đến gặp nhà thông thái và ông hỏi :
-“Con đã học được gì trên đường đời?”
-“Con đã học, hoàng tử đáp, rằng thế giới là chiếc gương của tâm hồn. Tâm hồn của con, trái tim của con không nhìn thấy thế giới , mà nhìn thấy chính nó trong thế giới. Khi tâm hồn và trái tim con reo vui, thế giới dường như cũng vui. Khi chúng buồn rầu, thế giới dường như cũng buồn. Thế giới, không buồn cũng không vui. Nó chỉ là, là tất cả. Nó không phải là thế giới gây phiền toái cho con, mà là ý tưởng con có về nó. Con chấp nhận nó mà không phán xét , hoàn toàn, một cách không điều kiện.
-“Đây là điều thông thái thứ ba, nhà thông thái nói. Hiện giờ con hoà thuận với chính con và với những người khác trên thế giới.”
Một cảm giác sâu sắc của sự yên bình, tĩnh lặng và chế ngự hoàn toàn hoàng tử.
Sự im lặng bên trong anh ta.
-“Con đã sẵn sàng, giờ thì, hãy vượt qua ngưỡng cửa cuối cùng, nhà thông thái nói, Từ sự im lặng của hoàn toàn im lặng”.
Và nhà thông thái biến mất.

Theo YenLang.Net