Saturday, June 18, 2011

Ýtưởng "điên rồ" có thể kiếm triệu đô

Nhiều người thực hiện việc kiếm tiền qua mạng khá thành công. Họ kiếm triệu đô chỉ với chiếc máy tính với những ý tưởng khá "điên rồ".
Bán 714.286 cuốn sách điện tử trên Kindle Hãy thử hình dung, mỗi cuốn sách giá 2 USD (khoảng 45k VNĐ) thường đem lại lợi nhuận 70% sau khi trừ các chi phí. Khi đó, để kiếm về 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng), bạn cần phải bán hết veo 714.286 cuốn sách. Liệu ý tưởng trên có phải điều khả thi?
6 ý tưởng "điên rồ" có thể kiếm tiền triệu đô
Đầu năm nay, cô nàng 26 tuổi Amanda Hocking đã tạo cú "hit" lớn trên thị trường sách điện tử Kindle. Mỗi tháng, cô bán được hơn 100.000 bản ebook với giá từ 1-3 USD (khoảng 22 ngàn đến 66 ngà VNĐ) tùy từng thời điểm. Và tới nay, chị ấy đã đút két vài triệu đô la rồi nhé.   Bán 477.784 ứng dụng trên App Store   Theo luật mới của Apple, mỗi ứng dụng trên App Store có giá bán tối thiểu 2,99 USD (khoảng 66 ngàn VNĐ). Nếu lợi nhuận trung bình cho ứng dụng khoảng 70%, bạn sẽ thu được 2,093 USD (khoảng 22 ngàn VNĐ) tiền lãi. Như vậy nhà phát triển cần bán xong 477.784 lượt ứng dụng là bỏ túi 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng) rồi đấy.
6 ý tưởng "điên rồ" có thể kiếm tiền triệu đô
Câu chuyện nghe chừng khó tin nhưng đấy chính là điều mà Doodle Jump's Igor và Marko Pusenjak, Tap Tap Revenge cùng Peter Verterbacka đã làm được với trò chơi chim điên (Angry Birds) đó nha.   Bán 250.000 món đồ trên Fiverr   Fiverr cho phép bạn kinh doanh mọi thứ có ích cho người khác với giá từ 1 đến 5 USD (khoảng 22k đến 110k VNĐ). Mặt hàng có thể là món đồ chơi hay đoạn video dạy lộn nhào trên bãi biển. Nếu trung bình mỗi thứ đem về lợi nhuận 80% thì bạn có tối đa 4 USD tiền lãi (khoảng 88k VNĐ) với mỗi sản phẩn bán đi.
6 ý tưởng "điên rồ" có thể kiếm tiền triệu đô
Như vậy, để bỏ túi 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng), bạn cần tẩu tán được ít nhất 250.000 món đồ. Chưa có ai làm được đâu nhé, cho nên ý tưởng lạ lùng này vẫn còn phi thực tế.   Bán 10.262 kế hoạch kinh doanh trên eBay   Nếu mỗi kế hoạch kinh doanh bán trên eBay có mức phí 111 USD (khoảng 2,4 triệu đồng) thì bạn phải nộp lại cho eBay một khoản chi phí bằng 13,55 USD (khoảng 300 ngàn VNĐ).
6 ý tưởng "điên rồ" có thể kiếm tiền triệu đô
Trừ đi các khoản, mỗi giao dịch thành công mang lại lợi nhuận bằng 97,45 USD (khoảng 2 triệu đồng). Như vậy cần đến 10.262 bản kế hoạch để hoàn thành mục tiêu 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng).   Vào đầu năm nay, Samuel Katabaaz đã bán được tới 99.999 bản kế hoạch kinh doanh của mình với mức giá 111 USD (khoảng 2,4 triệu đồng). Không phải bỏ vốn mà thu được số tiền khổng lồ thì quả thực hiếm.   Tweet 800.000 tin nhắn tài trợ trên MyLikes   Cách kiếm tiền giống như việc bạn ngồi đăng từng tin nhắn để kiếm vài xu mỗi khi có người click vào đó. Cách tính điểm bằng công cụ MyLikes Engagement Score, dựa trên những hoạt động của người dùng tại Twitter, Facebook và YouTube. Nếu có vài nghìn người nám đuôi thì mỗi click của bạn được trả tới 0,25 USD (khoảng 6 ngàn VNĐ), còn trên 100.000 người theo dõi thì mỗi click có giá 1 USD (khoảng 22 ngàn VNĐ).
6 ý tưởng "điên rồ" có thể kiếm tiền triệu đô
Chúng ta hãy cùng lấy ví dụ với 0.25 USD cho mỗi click nhé. Tính ra sẽ cần đến 4.000.000 click. Nếu trung bình 5 người nhấp vào 1 link thì bạn sẽ cần đạt 800.000 tweet đấy. Ngay cả những ông vua tweet như Snooki và Khloe Kardashian cũng chỉ kiếm được 40.000 USD (khoảng 880 triệu đồng) mỗi tháng. Vậy bao giờ chúng ta mới thu về 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng) theo cách này đây nhỉ?   Bán 1.000.000 pixel trên web quảng cáo   Rất đơn giản, mỗi pixel có giá 1 USD (khoảng 22 ngàn VNĐ) và khi bán được 1 triệu pixel, bạn sẽ đút túi 1 triệu USD (khoảng 22 tỷ đồng). Đó chính là ý tưởng táo bạo của Alex Tew khi anh chàng phải vắt óc nghĩ cách kiếm tiền đóng học phí.
6 ý tưởng "điên rồ" có thể kiếm tiền triệu đô
Sau khi dụ được gia đình và người thân mua 1.000 pixel đầu tiên, giới truyền thông đã vào cuộc và hết lời tung hô Alex Tew. Rất nhanh chóng, hàng triệu website tranh nhau mua miếng đất nhỏ 1 pixel trên trang web này. Nhờ vậy nên anh chàng cũng nhanh chóng trở thành triệu phú chính hiệu.

Friday, June 17, 2011

Online Viral Marketing Manager – người ngồi chơi “hợp pháp”

viral-marketingAnh ta đến công ty với đôi mắt thâm quầng sau một đêm mất ngủ vì chơi Facebook game. Ngồi vào bàn làm việc, anh ta dạo qua tất cả các báo mạng lớn.

Trong lúc các thành viên khác đăm chiêu bên màn hình máy tính, anh ta lại mặc sức lang thang trên các mạng xã hội, chat chit, viết blog, comment tán gẫu trên các diễn đàn. Nhưng sếp ngồi ngay đằng sau lại chẳng ý kiến hay than phiền gì. Lâu lâu, anh ta lại xin sếp “Cho em ra ngoài uống cafe với hội A, diễn đàn B”.
Những người chưa biết về việc của anh ta thường tò mò, chẳng lẽ công ty trả lương để anh ta đến ngồi chơi?

Chơi mà ra việc để làm
 
Thực ra, vào blog, mạng xã hội hay chat chit không phải là để phục vụ cho việc giải trí của anh ấy, mà thực sự, anh ta đang làm một công việc của người làm online viral marketing. Là người phải hiểu sâu sắc nhất những xu hướng cập nhật trên mạng Internet, anh ta không khác gì một chiếc radar phải giương tai mắt nghe ngóng mọi động tĩnh nhằm thiết kế những chiến dịch viral marketing trực tuyến hiệu quả nhất.
 
Hơn ai hết, anh ta phải biết, tung cuộc thi trên mạng xã hội nào là phù hợp với đối tượng khách hàng mục tiêu, ưu điểm, nhược điểm của từng mạng xã hội, anh ta phải biết cần quảng bá chiến dịch của mình trên các diễn đàn đông người nào là phù hợp và phải làm sao để những người quản lý diễn đàn không những không xóa bài, ban nick mà còn hỗ trợ mình, anh ta có thể tư vấn cho khách hàng nên liên kết với những hot blogger nào để quảng bá sản phẩm cũng như tư vấn những ý tưởng hay ho nhất cho chiến dịch digital marketing một sản phẩm nào đó, dựa trên việc nhận định các xu thế mới nổi trên Internet.

Chẳng hạn như nhờ biết Don Nguyễn là một anh chàng nổi bật trong cộng đồng hát nhép, nhạc sĩ kiêm bầu show Vĩnh Thuyên đã thuê anh chàng này hát nhép bài hát Vọng cổ teen, rồi khi bài hát nhép của Don Nguyễn nổi rần rần trong cộng đồng mạng, mọi người mới đổ xô đi lùng sục bài hát “gốc”, và cô nàng Vĩnh Thuyên Kim nổi lên từ đó.
 
Làm nghề này có vất vả không?
 
Có thể nói đây là một nghề khá thoải mái vì bạn được làm những gì mình muốn: đọc báo mạng, bàn luận, tán gẫu và chơi game. Tuy nhiên, cũng như các chiến dịch Digital marketing nói chung, một Online Viral marketing thường đi kèm với những tiêu chí đo lường (KPI) cụ thể, vì số người xem, số người đăng ký, tỷ lệ chuyển đổi, số tác phẩm gởi về dự thi… nên người làm Online Viral marketing sẽ có những áp lực phải đáp ứng được các KPI này.
 
Về mặt thực thi, thông thường các Online Viral Marketing Manager sẽ không trực tiếp làm những việc như tung quảng cáo lên các diễn đàn hay post video lên từng trang Social Media, sẽ có những cộng tác viên hay nhân viên chịu trách nhiệm triển khai theo phương hướng của họ. Tuy nhiên người ta hay nói “tam sao thất bản”, từ ý tưởng, chủ trương của người leader, khi triển khai xuống team rất có thể đi trật đường rày, hoặc có thể do trình độ có hạn, chất lượng công việc các cộng tác viên (thường là sinh viên) không được như mong đợi, Online Viral Marketing Manager sẽ là người phải theo rất sát, đôn đốc, điều chỉnh và kịp thời khắc phục hậu quả (nếu có). Về mặt này thì họ cực chẳng khác gì một bảo mẫu giữ trẻ.

Làm sao để làm công việc này
 
Công việc này trước hết đòi hỏi người có bề dày hoạt động trên mạng, chịu khó sục sạo mọi ngõ ngách trong xã hội ảo, trải nghiệm tất cả những xu hướng hot của cư dân mạng. Người làm online viral marketing tối thiểu phải có kinh nghiệm quản lý ít nhất một diễn đàn để hiểu cách vận hành của một diễn đàn cũng như insight của người dùng, họ cần dùng ít nhất 5 loại blog, mạng xã hội, sau đó từ nền tảng đó họ mới có thể phát triển các hiểu biết của mình về xã hội ảo. Sẽ là một lợi thế nếu đó là một người nổi tiếng sẵn trong cộng đồng mạng, quy tụ cho mình một lượng “fan” kha khá, việc lan truyền thông điệp sẽ dễ dàng hơn.

Thêm vào đó, phải biết chút ít về Digital Marketing, ít ra phải biết coi Google Analytics, biết phân biệt SEO và Google Adwords, biết traffic là cái gì, biết phần mềm email marketing…, nói chung phải có background về digital marketing để hiểu được các thuật ngữ trong ngành.
 
Hiện nay hầu hết các công ty Digital Marketing đều có nhân sự cho bộ phận này, và nó có thể được gọi dưới nhiều tên gọi khác nhau như Forum seeding, Community Development, Viral Marketing…, và hạng mục công việc có thể có phần giống, có phần khác nhau, tuy nhiên bản chất vẫn là tận dụng mối quan hệ và sự lan truyền trong cộng đồng mạng để quảng bá sản phẩm, thương hiệu hay vận động cho một chiến dịch xã hội nào đó.

Đời có trải đầy hoa hồng?
 
Tuy vậy, trên thực tế, số Online Viral Campaign ở Việt Nam gọi là thành công chỉ đếm chưa đầy 2 đầu ngón tay và ngón chân, và mỗi người làm công việc này chỉ có khoảng 1 đến 2 campaign “để đời”. Vì nhiều lý do, những online viral campaign không phải lúc nào cũng thành công như mong đợi. Nhiều công ty, ngay chính cả người trong nội bộ cũng chưa hiểu được tính chất “lan truyền” nằm trong 2 chữ Viral Marketing và họ đồng nhất khái niệm “rải link” trên các forum là “viral marketing”, vì vậy người làm viral marketing của công ty họ suốt ngày có một công việc là “rải link lên các diễn đàn”.
 
Có nhiều chiến dịch, do khách hàng thay đổi về kế hoạch, ngân sách, rất có thể từ ý tưởng tổ chức một cuộc thi hoành tráng, sau lại trở thành một trò tag ảnh nhận quà linh tinh trên Facebook. Hơn nữa, để cho một chiến dịch viral thành công, cần phải phối hợp tốt với các kênh khác như Ads banner, bài PR… để kích thích lan truyền vào giai đoạn đầu, nhưng có thể vì lý do tiết giảm ngân sách cho truyền thông, chiến dịch viral không lan rộng được như mong đợi.
 
Cũng có thể, một số sản phẩm tự thân rất khó làm viral, hoặc khi giới thiệu ra thì vấp phải sự phản đối tiêu cực từ người tiếp nhận, làm cho chiến dịch viral giảm hiệu quả rất nhiều so với kỳ vọng.

Cuối cùng Nissan cũng “nói” đúng!

(Marketingchienluoc.com) Chiếc xe hơi chạy bằng năng lượng điện mang thương hiệu Nissan Leaf đã nhận được khá nhiều phản ứng tích cực từ phía thị trường. Tuy nhiên nếu xét về yếu tố định vị, theo nhiều chuyên gia tiếp thị, thì Nissan đã “lỡ tàu”. Và sau nhiều bước hụt như thế, Nissan giờ đây đã bước vào đúng đường ray của mình. Một mẫu quảng cáo của Nissan tôi thấy trên tạp chí Fast Company đã chứng minh được điều này.

Cuộc tranh cãi – hay nói thẳng ra là sự chỉ trích – đã được châm ngòi năm vừa rồi khi đoạn film quảng cáo kể về một chú gấu bắc cực chu du từ miền cực bắc tới thành phố; và trong lúc dạo chơi, chú đã ôm lấy một chàng trai khi thấy anh sở hữu chiếc Leaf. Đoạn quảng cáo này rõ ràng rất ấn tượng và đã đạt được 1.3 triệu lượt người xem trên YouTube. Nhưng một số chuyên gia tiếp thị xanh lại cho rằng đoạn film này có vẻ vụng về và không nêu bật lên được trải nghiệm khi lái chiếc xe.

Thậm chí trước khi đoạn film được phát sóng, một số người còn chỉ ra rằng bản thân cái tên đã là một vấn đề. Cái tên “Leaf” (chiếc lá) không đánh trúng tâm lý yêu thích xe của nam giới là “Làm sao chiếc xe này làm tôi trở nên hấp dẫn và mạnh mẽ hơn?” 

Một chuyên gia quảng cáo xanh cho biết: “Liệu sẽ có một gã nào đó tới quán rượu và nói rằng ‘Hey, tôi đã lái thử chiếc Leaf’?”

Các chuyên gia gợi ý rằng Leaf nên được định vị theo phong cách thú vị hơn, như là chiếc xe chạy bằng điện đầu tiên mang tính phổ thông và thực sự là một sự đột phá. Nissan có thể tự hào rằng đây sẽ mở ra một kỉ nguyên mới của xe hơi!

Trong mẫu quảng cáo mới nhất, Nissan đã có sự thay đổi tích cực. Mẫu quảng cáo này chỉ ra khả năng tiết kiệm nhiên liệu của các loại xe khác nhau. Tuy nhiên trục nằm ngang không phải là “bao nhiêu dặm trên một gallon” mà là “bao nhiêu dặm trên một dollar”. Và thông điệp được đưa ra là “so sánh số dặm trên mỗi gallon giờ đây đã lỗi thời”.

Thước đo mpg (dặm trên gallon) truyền thống đã thực sự trở nên lỗi thời. Và số dặm trên gallon sẽ còn có ý nghĩa nữa không khi bạn không sử dụng xăng?

Ý tưởng “bạn có thể chạy bao xa với mỗi dollar bỏ ra” là một ý tưởng tuyệt vời đặc biệt trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Và Nissan đã đưa ra một thước đo mới cho một loại phương tiện giao thông hoàn toàn mới.

Havard Business Review / Phạm Vũ Hoàng Quân

Tầm nhìn của café Việt Nam: Suy nghĩ và trăn trở

(Tamnhin.net) - Có lẽ tôi là người Việt hiếm hoi đến dự chương trình gặp gỡ các nhà lãnh đạo thế giới (MIT SLOAN) do Tập đoàn Trung Nguyên tổ chức tại TP HCM chiều thứ 3, ngày 24/5/2011 tại Hội quán Thanh Niên Sáng tạo Trung Nguyên (Số 7 Nguyễn Văn Chiêm, Quận 1, Tp.HCM).


Tôi đến dự không phải do Trung Nguyên mời mà được một người bạn nước ngoài “rủ” đi. Tôi quyết định đến, một phần, vì tò mò, phần luốn giao lưu, phần khác vì câu nói của giáo sư Michael Porter đang vẫn vang trong đầu mình “Việt Nam cần một mô hình phát triển kinh tế mới”. Và hơn thế nữa, tôi là người đặc biệt quan tâm đến 2 chữ TẦM NHÌN!

Người mời tôi đến dự cho biết, Việt Nam là một trong hai quốc gia đoàn chọn trong chuyến công tác lần này (cùng với Malaysia) nhằm gặp gỡ các tấm gương tiêu biểu là các lãnh đạo doanh nghiệp để trao đổi, nhận diện cơ hội và thách thức hiện có. Vì có một phần cảm thấy vinh dự cho Việt Nam và cũng nghĩ đến việc học hỏi và hợp tác với các thành viên MIT SLOAN trong tương lai nên tôi đến sớm để giao lưu. Bởi bao năm nay câu nói “Thời đại mới đòi hỏi phải có những là lãnh đạo xuất chúng” luôn làm tôi trăn trở nên việc tìm kiếm những nhà lãnh đạo xuất chúng, hay ít nhất là có sức mạnh đặc biệt nổi trội luôn là khát khao cháy bỏng trong tôi.

Chỉ có đến đây, được nghe, được nhìn, được thưởng thức và được cảm nhận tôi mới hiểu ra một điều tưởng chừng rất đơn giản rằng café tạo ra năng lượng trong thời đại kinh tế tri thức này, rằng triết lý café làm cho thế giới tốt đẹp hơn của Trung Nguyên là có lý. Các nhà lãnh đạo thế giới cũng được hiểu thêm tại sao café lại có thể mang đến sự hòa hợp và sự phát triển ổn định, rằng tại sao café được người ta gọi là vàng đen, rằng Việt Nam không thể không là điểm sáng số 1 của hành tinh xanh chúng ta về cà phê.


Đoàn MIT chụp hình lưu niệm

Đến đây và thông qua bài trình bày, các nhà lãnh đạo thế giới cũng hiểu thêm trăn trở của Chủ tịch Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ - tại sao Việt Nam là nước xuất khẩu café thứ 2 trên thế giới nhưng chỉ thu về có 2 trong số 100 tỷ đô la từ doanh thu của ngành này. Rằng café được trồng ra bởi người nông dân nhưng giá cả nhiều khi lại được quyết định bởi những người đầu cơ - những ai không làm ra vàng đen. Và rằng 7 sáng kiến của Trung Nguyên cho ngành café toàn cầu là rất đúng lúc, rất cần thiết.

Làm sao để trong vòng 15 năm nữa doanh thu từ café của Việt Năm tăng lên 20 tỷ đô la từ 2 tỷ hiện nay liệu có thành sự thực. Liệu những thương hiệu cafe Việt như Trung Nguyên có thể đủ sức để cạnh tranh với những cây đại thụ trong ngành café thế giới như Starbuck hay Nestle. Liệu những người dân của những nước tiêu thụ café hàng đầu thế giới như Phần Lan, Mỹ, Thụy Sỹ, Brazil,… có nghĩ đến Việt Nam đầu tiên khi họ uống thứ nước uống đặc biệt này. Một loạt các câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu người nghe trong suốt chương trình giao lưu.

Rõ ràng tại Việt Nam, MIT SLOAN đã chọn Trung Nguyên như một trường hợp điển hình (case study) để nghiên cứu là đúng. Bởi tầm nhìn của Trung Nguyên trong việc phát triển ngành cà phê thế giới khá rõ. Bởi có bao nhiêu doanh nghiệp có suy nghĩ như Trung Nguyên - biến Buôn Mê Thuật thành thánh địa cà phê, thủ phủ của cà phê thế giới, bởi nếu như 10 năm trước đây thế giới chưa biết nhiều về “vàng đen” của Việt Nam thì nay họ đã biết đến cà phê có chất lượng của chúng ta và rằng họ phải quay lại đất nước hình chữ S này không chỉ để thưởng thức thứ café thứ thiệt của đất Việt mà để được tham quan bảo tàng cà phê có một không hai trên trái đất.

Thế mạnh của Việt Nam phải là nông nghiệp. Bởi đất nước ta có đến trên 80% dân số làm nghề nông. Tôi luôn trăn trở và quyết tâm bám theo ý tưởng này của mình. Nhưng vấn đề là chúng ta phải trồng cây gì, nuôi con gì? Phải làm sao sản sinh ra những mặt hàng đặc sản, có giá trị gia tăng cao. Liệu café có phải là 1 trong những “cây chiến lược”, “cây tầm nhìn” của chúng ta? Muốn hay không tôi cũng hoàn toàn chia sẻ với người đứng đầu của tập đoàn Trung Nguyên rằng cây cà phê không chỉ là kinh tế mà còn hơn thế nữa: môi trường, ngoại giao, lương thực, nhân văn, nghệ thuật,… Muốn hay không tôi cũng thấy xúc động khi biết rằng chúng ta cần những khát vọng lớn, những tinh thần hợp tác quốc tế, sự sáng tạo đột phát, những kỹ năng tạo ra giá trị cốt lõi để đưa cà phê lên đỉnh cao của văn hóa và nghệ thuật, của nhân văn và trí tuệ.


Đoàn MIT SLOAN thưởng thức Cafe Trung Nguyên

Cà phê đâu chỉ là một loại cây. Cà phê đâu chỉ là một đồ uống. Cà phê là di sản văn hóa của nhân loại. Ly cà phê mà chúng ta uống hàng ngày không đơn thuần là kết tinh của nguyên liệu tốt và công nghệ hiện đại mà còn là hồn đất của 160 triệu năm, là hồn sông hồn núi, là bí quyết phương đông huyền bí. Và như vậy, khi uống café chúng ta cần nói 1 câu rất đơn giản “cám ơn cà phê”. Ta nói ra không bằng âm thanh hay bằng các ngôn ngữ mà nói trong lòng, trong tâm, từ trái tim mình. Làm được việc này chắc chắn chúng ta sẽ thấy cà phê ngon hơn. Hơn thế nữa, với hành động nhỏ này, chúng ta đã góp phần vào chiến lược và tầm nhìn của cà phê Việt.

Tầm ảnh hưởng của cà phê hiện nay đã vượt khỏi khuôn khổ nông nghiệp. Tôi sẽ không hề thiên vị khi nói rằng Trung Nguyên là thương hiệu tiên phong, nỗ lực xây dựng và phát triển quan điểm này.  Và không chỉ có mình tôi, nhiều bạn đọc đang đọc bài viết này chắc chắn cũng đang chia sẻ cùng quan điểm.

Câu nói ấn tượng nhất của buổi giao lưu với các nhà lãnh đạo thế giới là lời của giáo sư  Joseph Nye, người được mệnh danh là nhân vật có ảnh hướng lớn trên thế giới (the Planet’s most influential person)  mà tôi muốn trích nguyên bằng tiếng anh “Coffee Power is Vietnam’s soft and smart power”. Thế mới hiểu rằng giá trị của café lớn chừng nào. Thế mới biết tầm nhìn của café Việt quan trọng đến nhường nào.

Tôi gõ những dòng chữ này lúc mới 04 giờ sáng. Hình ảnh của cả trăm nhà lãnh đạo đến từ khắp các nước có mặt tại Số 7 Nguyễn Văn Chiêm, Quận 1, Tp.HCM vẫn in đậm trong đầu tôi. Những trao đổi và sẻ chia của họ với Chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ về tầm nhìn và chiến lược cạnh tranh của Trung Nguyên trước các đối thủ là những tập đoàn đa quốc gia trong cuộc chinh phục thế giới, về lý do tại sao doanh nghiệp này lại chọn cà phê là “lẽ sống” của mình vẫn như còn đọng trong đầu tôi như những giọt cà phê đen, thơm và ấn tượng.

Và tôi thầm cám ơn người bạn yêu quý đã mời tôi đến dự buổi gặp gỡ và trao đổi đặc biệt này. Để hiểu thêm về triết lý  “sống cà phê, chết cà phê, lên thiên đường cũng cà phê”. Để cám ơn tiến sỹ Howard Moskowitz, người đã ủng hộ Việt Nam và Trung nguyên khi tuyên bố rằng “Trung Nguyên đã làm cuộc cách mạng trong cà phê và sẽ làm thay đổi thế giới. Trung nguyên sẽ vượt lên cả Pepsi bởi sự thật sẽ là như vậy. Tôi chờ đợi cả 30 năm để đến thời điểm này. Chúng ta có thể làm được việc đó. Tôi tin. Tôi cũng ở trong đó.”


Nguyễn Mạnh Hùng
Chủ tịch HĐQT kiêm CEO Thái Hà Books

Giấc mơ

Đó là một cuộc chạy đua tại địa phương, cuộc đua mà chúng tôi phải tập luyện gian khổ để được tham gia. Vết thương ở chân của tôi vẫn chưa lành. Tôi đã phải tự đấu tranh xem mình có nên tham gia cuộc đua hay không. Cuối cùng, tôi cũng chuẩn bị tham gia cuộc đua.

“Chuẩn bị... sẵn sàng...”. Tiếng súng lệnh vang lên và chúng tôi xuất phát. Những người con gái khác đều chạy trước tôi. Tôi nhận ra rằng mình đang chạy cà nhắc một cách đáng xấu hổ và càng lúc tôi càng tụt lại phía sau.
Người chạy về đích đầu tiên trước tôi đến 2 vòng chạy. “Hoan hô”. Đám đông hét lớn. Đó là tiếng hoan hô lớn nhất tôi từng nghe ở một cuộc đua.

“Có lẽ mình nên bỏ cuộc”, tôi thầm nghĩ khi đang cà nhắc từng bước.

“Những người kia không muốn chờ cho đến khi mình chạy tới đích”. Nhưng cuối cùng, tôi cũng quyết định chạy tiếp. Hai vòng chạy cuối cùng tôi đã chạy trong đau đớn. Trong phút chốc, tôi quyết định không tham gia chạy vào năm tới. Dù có khỏi đau chân hay không, tôi cũng không thể thắng nổi cô bé đã thắng tôi đến 2 lần.

Khi về tới đích, tôi nghe tiếng hoan hô to như lần người đầu tiên về đích. “Chuyện gì đây?” Tôi tự hỏi. Tôi quay lại nhìn thấy bọn con trai đang chuẩn bị vào vòng chạy. “Đúng rồi, họ đang hoan hô mấy đứa con trai”.

Tôi liền chạy thẳng vào nhà tắm thì có một cô gái đâm sầm vào tôi. “Chào, bạn thật là dũng cảm”, cô gái nói với tôi.

Tôi nghĩ thầm, “dũng cảm ư? Cô này chắc nhầm mình với ai rồi. Tôi thua mà”.

“Nếu là tôi, tôi đã không thể chạy được như bạn. Tôi chắc mình sẽ bỏ cuộc ngay từ vòng đầu tiên. Chân bạn có sao không? Lúc nãy, chúng tôi đã cổ vũ bạn. Bạn có nghe không?”, cô gái tiếp lời.

Tôi không thể tin nổi. Một người xa lạ hoan hô tôi, không phải vì cô ấy muốn tôi thắng, mà vì cô ấy muốn tôi không bỏ cuộc. Tôi đã lấy lại được niềm hy vọng. Tôi quyết định sẽ tham gia cuộc đua năm sau.

Hôm đó, tôi học được 2 điều:

Thứ nhất, một chút thân ái và tin tưởng vào người khác có thể làm thay đổi người đó rất nhiều. 

Thứ 2, sức mạnh và dũng khí không phải luôn được đo bằng huy chương và chiến thắng. Chúng được đo bằng những thử thách mà chúng ta vượt qua được. Những người mạnh nhất không phải lúc nào cũng là người thắng cuộc mà có khi là những người không bỏ cuộc khi họ đã thua

Lộ mặt đối thủ của Youtube

Với nhiều người sử dụng Internet, YouTube đồng nghĩa với video trực tuyến. Nhưng Mike Michaud và một vài người bạn sống tại ngoại ô Chicago đang cố gắng thay đổi điều đó.

Mike đồng sở hữu Channel Awesome, kênh video trực tuyến khuyến khích việc đăng tải trực tuyến các video game, sách truyện tranh và các lĩnh vực tổng hợp của đời sống văn hóa phổ biến. Vốn là một nạn nhân của suy thoái kinh tế, từng bị Circuit City sa thải, từng làm chủ một chuỗi bán lẻ điện tử về sau bị đóng cửa, Mike  hiện giờ là một người hưởng lợi từ sự phát triển quảng cáo, đã nhân gấp đôi doanh thu của năm ngoái, đủ để thuê 7 nhân viên làm việc toàn thời gian.

"Mọi người có thể vẫn còn chế giễu video trực tuyến nhưng hiện giờ đó thực sự là một công việc kinh doanh.", Mike nói. Đối tác chủ yếu của Channel Awesome không phải là YouTube mà là Blip.tv chuyên phân phối chuỗi sản phẩm sản xuất cho Web và bao quanh chúng với những quảng cáo. Các công ty tạo ra chuỗi sản phẩm này thường nhỏ và xuất hiện ở những nơi không ngờ tới - như nhà của Mike - và đang tạo ra những ngôi sao bất ngờ tại những góc ngách sinh lợi.

Chương trình hàng tuần nổi tiếng nhất của Channel Awesome "Nostalgia Critic" được Doug Walker, một người khác bị Circuit City sa thải, sản xuất tại nhà cách nhà Mike 5 phút đi bộ thu hút 3 triệu lượt xem một tháng. Một số đối tác sản xuất hàng đầu của Blip cũng kiếm được ít nhất 1 triệu USD từ doanh thu quảng cáo trên Blip mỗi năm, theo Dina Kaplan, người đồng sáng lập Blip.

Giống như  YouTube, Blip chia sẻ doanh thu quảng cáo với các nhà sản xuất loạt sản phẩm cho Web. Nhưng khác với YouTube cho đăng tải những video nghiệp dư và Netflix đăng tải phim truyện và các chương trình truyền hình, Blip chỉ tập trung vào những nhà sản xuất. Thay vì cạnh tranh trực tiếp, nó cố gắng tạo ra một mảng mới bên cạnh YouTube trong thế giới rộng mở của Web video.

Doug Walker đang chuẩn bị chương trình "Nostalgia Critic" trên Channel Awesome.  

"Dự án chúng ta bắt đầu từ năm 2005 rút cục cũng thành công". Kaplan nói, trích dẫn sự thành công của những công ty như của Michaud, mối quan hệ của Blip với các nhà quảng cáo hàng đầu như Procter & Gamble và sự phổ biến ngày càng tăng của việc đưa video lên truyền hình.

Công ty cho biết các chương trình được tổ chức bởi các máy chủ của Blip chiếm khoảng 330 triệu lượt xem mỗi tháng. Blip hiện đang trong giai đoạn được cấp tài chính lần thứ 3 bởi các công ty đầu tư mạo hiểm đã đầu tư 18 triệu USD vào công ty này. Nhưng điều mà hệ thống vẫn đang thiếu, theo giám đốc điều hành Blip và các chuyên gia công nghiệp khác, là các cách thức để tìm ra chuỗi sản phẩm làm riêng Web trở nên đáng xem hơn. Vấn đề, theo cách nói chuyên môn, là phát kiến và đó là một trở ngại lớn mà các nhà tài trợ và nhà sản xuất Web video phải vượt qua.

Mike Hudack, người đồng sáng lập khác và giám đốc điều hành của Blip cho biết vào tháng trước khi đưa ra giải pháp của mình: một trang chủ mới cho Blip được cập nhật hàng ngày với những links liên kết tới các phần mới của các chương trình.

Trang chủ mới chia các chương trình thành các hạng mục như thể thao và hài kịch, xếp hạng các chương trình theo sự nổi tiếng và tạo ra cái mà Michaud gọi là "các trang chương trình thực sự" cho người sử dụng truy cập.

YouTube cũng đang cố gắng giải quyết vấn đề về phát kiến bằng cách lập trình cho trang chủ và nhấn mạnh vào các kênh nội dung. Tháng 3, công ty này, một đơn vị của Google, mua một công ty sản xuất Web video có tên là Next New Networks và hiện tại nhân viên của Next New đang đào tạo các nhà sản xuất YouTube mới chớm nở.

Cũng giống như nhiều công ty Web video khác, Blip cũng là một đối tác của YouTube, vì vậy nó luôn tránh mọi tình huống cạnh tranh. Nhưng rõ ràng là nó thích tăng lượng xem video trên chính trang của mình hơn là trên YouTube.

Các khán giả của những sản phẩm trên Web vẫn còn ít bởi các truyền hình tiêu chuẩn và do đó ngân sách cũng vậy. Michaud, 29 tuổi, người mặc áo sơ mi vàng với biểu tượng ngôi sao từ Super Mario Bros. 3 in ở mặt trước để ăn sáng nói trong một video trực tuyến của mình rằng: "vẫn còn có rất nhiều công việc lớn để làm."

Anh nói: "Công ty của tôi có rất nhiều việc phải làm để trưởng thành nhưng tôi tin rằng một lúc nào đó trong một hoặc hai năm tới ai đó sẽ tạo ra một chuỗi sản phẩm mà mọi người đều nói đến."
Đó là một chương trình, anh nói, có thể thu hút mọi người khỏi truyền hình truyền thống "đến những lựa chọn vô tận về video trực tuyến."

Rất nhiều các chương trình hàng đầu của Blip là một phần của một mạng lưới, giống cách MTV là một cái ô của mọi loại chương trình. Cùng với Channel Awesome, Blip đánh giá cao Rooster Teeth, một công ty sản xuất đặt tại Austin, Texas sản xuất loạt phim hành động "Red vs. Blue" và "Immersion" chuyển thể từ video game sang cuộc sống thực.

Như tên của các chương trình và các kênh ngụ ý, thành công thường  xuất phát từ những chủ đề hấp dẫn người xem trẻ. Bà Kaplan nói: "Họ giống như những người đang "ít xem truyền hình hơn vì vậy nếu các nhà quảng cáo muốn tiếp cận họ, họ phải quảng cáo trên chuỗi sản phẩm dành cho Web."

Hé lộ “cẩm nang” bán lẻ của Apple

CEO Steve Jobs đã đưa Apple trở thành công ty công nghệ có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất thế giới với những sản phẩm công nghệ cao như iPad hay iPhone.

Tuy nhiên, theo tờ Wall Street Journal, một yếu tố rất quan trọng dẫn tới thành công của "quả táo" lại không hề mang tính công nghệ cao, đó là bí quyết bán lẻ của hãng.

Báo này dẫn thống kê từ Apple cho thấy, trong năm 2010, số lượt khách đặt chân tới 326 gian hàng bán lẻ của Apple mỗi quý thậm chí đã vượt con số 60 triệu lượt khách tới thăm 4 công viên chủ đề lớn nhất của hãng Walt Disney.

Còn theo số liệu từ ngân hàng đầu tư Needham, doanh thu bán lẻ hàng năm của Apple tính trên mỗi đơn vị diện tích là foot vuông (0,3048 m2) đã tăng lên 4.406 USD. Nếu tính cả doanh thu trực tuyến, con số này lên tới 5.914 USD, vượt doanh thu tương ứng của hãng nữ trang Tiffany (3.070 USD), công ty bán lẻ đồ hiệu Coach (1.776 USD), hay nhà bán lẻ đồ điện tử Bestbuy (880 USD).

Với không gian khoáng đạt và ánh sáng thu hút, các gian hàng của Apple tạo cho khách tới thăm cảm giác thoải mái và thân thiện. Tuy nhiên, Wall Street Journal cho biết, hãng lại có những quy định rất ngặt nghèo về quy chế hoạt động của những gian hàng này.

Apple yêu cầu nhân viên không được đồn đoán gì về các sản phẩm của hãng, các kỹ thuật viên không được thừa nhận trước khi hãng có thông tin chính thức về những lỗi sản phẩm xuất hiện trên diện rộng. Các nhân viên hiện tại và từng làm việc cho Apple còn tiết lộ, bất kỳ nhân viên hay kỹ thuật viên nào của hãng viết những thông tin liên quan đến công ty trên Internet đều bị sa thải.
Bên trong một gian hàng bán lẻ của Apple.
Thành công trong lĩnh vực bán lẻ của Apple một phần không nhỏ xuất phát từ nhu cầu mạnh mẽ của người tiêu dùng đối với sản phẩm của hãng. Tuy nhiên, các nhà phân tích bán lẻ nhận định, nhiều lợi thế của Apple so với các đối thủ bán lẻ như Best Buy lại mang tính kỹ thuật: Apple là một thương hiệu đơn lẻ, có ít sản phẩm hơn nhiều, và chỉ có vài trăm gian hàng so với hơn 4.000 gian hàng của Best Buy.

Cùng với sự mở rộng của Apple, một số nhà phân tích cho rằng hãng này sẽ đối mặt với nhiều áp lực hơn trong việc duy trì đều đặn chất lượng dịch vụ khách hàng ở mức cao. Một số cựu nhân viên của Apple cho biết, họ đã nhận thấy sự suy giảm trong chất lượng nhân viên bán lẻ của hãng này khi mạng lưới mở rộng.

Mặc dù vậy, Apple vẫn được xem là người đi đầu trên nhiều phương diện ở mảng dịch vụ khách hàng và thiết kế gian hàng. Theo tiết lộ của một số nhân viên và tài liệu đào tạo nhân viên bị rò rỉ của Apple, nhân viên bán hàng của hãng được học một triết lý bán hàng có vẻ hơi lạ: công việc không phải là bán sản phẩm, mà là giúp khách hàng giải quyết vấn đề.

"Công việc của các bạn là hiểu tất cả các nhu cầu của khách hàng, mà một vài nhu cầu trong đó thậm chí khách hàng không nhận ra", một tài liệu đào tạo viết. Vì mục tiêu này, nhân viên bán hàng của Apple không được nhận hoa hồng bán hàng, nhưng cũng không phải chịu áp lực về doanh số tối thiểu.

Một tài liệu đào tạo của Apple mà Wall Street Journal thu thập được cho thấy, "quả táo" đã đặt ra quy định về "các bước phục vụ khách hàng" bao gồm: "Lại gần khách hàng với thái độ chào đón thân tình", "Hỏi han lịch sự để hiểu các nhu cầu của khách", "Đưa ra một giải pháp để khách hàng có thể áp dụng tại nhà ngay trong ngày", "Lắng nghe và giải quyết bất kỳ vấn đề hay lo ngại nào của khách hàng", và "Kết thúc bằng lời chào tạm biệt thân tình và lời mời quay trở lại". Trong nguyên gốc tiếng Anh, các chữ cái bắt đầu các nguyên tắc này ghép lại thành từ "APPLE".

Cách Apple kiểm soát trải nghiệm của khách hàng cũng đi vào từng chi tiết nhỏ nhất. Tài liệu đào tạo mật của hãng thậm chí còn nêu rõ từng câu nói cụ thể mà các kỹ thuật viên tại các gian hàng bán lẻ phải nói với khách hàng để biểu lộ cảm xúc.

Chẳng hạn: "Hãy lắng nghe và hạn chế phản ứng của bạn bằng những lời trấn an đơn giản rằng bạn đang làm đúng như những gì khách yêu cầu. "Vâng, vâng, tôi hiểu ạ"..."

Bất kỳ nhân viên nào của Apple đến muộn 6 phút trong ca làm việc của người đó 3 lần trong 6 tháng sẽ bị cân nhắc sa thải. Mặc dù không chịu mức doanh số tối thiểu, các nhân viên phải bán được các gói dịch vụ đi kèm thiết bị. Những ai không bán đủ gói dịch vụ sẽ bị đào tạo lại hoặc chuyển vị trí công tác.

Các nhà phân tích cho biết, nhiều hãng bán lẻ cũng nỗ lực đem đến dịch vụ khách hàng chất lượng tốt và thiết kế gian hàng hấp dẫn, nhưng hầu như không có hãng nào đi vào từng chi tiết như Apple. Chẳng hạn, hãng bán lẻ Nordstrom gần như không có tài liệu đào tạo về dịch vụ khách hàng và muốn nhân viên bán hàng tự học khi vào việc. Về thiết kế gian hàng, một chuyên gia cho rằng, hầu hết các hãng bán lẻ đều lập một khuôn mẫu rồi triển khai, còn Apple thì liên tục nâng cấp diện mạo và không khí trong các gian hàng của mình.

Thành công của Apple trong lĩnh vực bán lẻ càng trở nên nổi bật khi nhiều hãng bán lẻ khác chật vật. Vào năm 2009, khi doanh thu bán lẻ toàn cầu giảm 2,4%, đánh dấu năm đầu tiên suy giảm sau nhiều thập kỷ - theo số liệu của hãng tư vấn Customer Growth Partners - doanh thu bán lẻ của Apple tăng xấp xỉ 7%. Năm ngoái, doanh thu bán lẻ không tính bán trực tuyến của Apple tăng 70% lên 11,7 tỷ USD, chiếm 15% trong tổng doanh thu 76,3 tỷ USD của hãng, vượt xa mức tăng trưởng 4,5% của lĩnh vực bán lẻ nói chung.

Các hãng bán lẻ khác đang nỗ lực "copy" các bí quyết bán lẻ của Apple, từ hỗ trợ kỹ thuật tới cách thức bố trí gian hàng, nhưng xem ra không thành công. Hãng Best Buy đã mua lại công ty dịch vụ sửa chữa máy tính Geek Squad vào năm 2002, một năm sau khi Apple mở gian hàng đầu tiên, nhưng vẫn không thể thổi một luồng gió mới vào công việc kinh doanh. Theo số liệu của các nhà nghiên cứu, tỷ suất lợi nhuận trước thuế của Best Buy chỉ loanh quanh ở mức 1%, trong khi của các gian hàng bán lẻ của Apple lên tới 26,9%.

Khi mở gian hàng bán lẻ đầu tiên của hãng tại Arizona vào năm 2009, Microsoft đã áp dụng nhiều điểm thiết kế và cách chăm sóc khách hàng giống Apple, bao gồm sàn lát gỗ cứng, không gian thoáng đạt, mỗi nhân viên bán hàng một người đào tạo... Tuy Microsoft không tiết lộ thông tin về mảng bán lẻ của hãng, giới phân tích cho rằng tỷ suất lợi nhuận là thấp, vì Microsoft chủ yếu bán lại máy tính của các công ty khác, còn Apple thì bán sản phẩm của chính mình.

Mặc dù giờ đã là một thứ vũ khí tấn công của Apple, các gian hàng bán lẻ ban đầu lại được xem như một bước đi phòng thủ. Khi Jobs trở lại Apple vào năm 1996 sau 11 năm ra đi trước đó, công ty đang trong giai đoạn khó khăn, với máy tính Macintosh không hề được các hãng bán lẻ lớn ưa chuộng. Thay đổi chiến lược bán lẻ là một ưu tiên của Jobs, vì thương hiệu Apple đã trở nên "ốm yếu" đến nỗi các hãng bán lẻ lớn từ chối tích trữ sản phẩm này trong kho. Dù Apple vẫn đang phát triển các sản phẩm mới, Jobs hiệu rằng, sản phẩm mới sẽ không có ý nghĩa gì nếu người tiêu dùng không thể tìm thấy những sản phẩm đó.

Apple nhanh chóng thử nghiệm gian trưng bày sản phẩm riêng bên trong các hãng bán lẻ lớn. Nhưng Jobs cũng nhận thấy là sẽ không thể kiểm soát được trải nghiệm của khách hàng tại những hãng bán lẻ đó. Bởi thế, xây dựng các gian hàng bán lẻ của riêng Apple là lựa chọn tốt nhất. Sau đó, vào các năm 1999 và 2000, Jobs đã lôi kéo những gương mặt "sừng sỏ" về bán lẻ như Millard Drexler của Gap và Johnson của Target về đầu quân cho Apple. "Quả táo" đã hút mất của Gap nhiều nhân tài trong mảng bán lẻ đến nỗi, đội bán lẻ của Apple khi đó còn bị gọi đùa là "Gapple".

Sau một năm thử nghiệm ý tưởng gian hàng, Apple mở hai gian hàng bán lẻ đầu tiên của mình vào năm 2001, tại Virginia và California. Hai năm sau, hãng mở hơn 70 gian hàng tại các địa điểm khác như Chicago, Honolulu và Tokyo. Đến nay, các gian hàng của Apple đã được mở ở những nơi không thể tuyệt vời hơn như bên trong khuôn viên bảo tàng Louvre ở Paris hay tòa nhà kính chọc trời ở Thượng Hải.

Để được nhận vào làm trong gian hàng bán lẻ của Apple, các ứng viên thường phải vượt qua hai vòng phỏng vấn, với các câu hỏi về kỹ năng lãnh đạo và giải quyết vấn đề, mức độ hứng thú đối với sản phẩm của Apple. Trong khi hầu hết các hãng bán lẻ phải chật vật tìm nhân viên, thì đơn xin việc tại các gian hàng của Apple luôn đầy chật.

Một khi đã được tuyển, nhân viên mới sẽ được đào tạo kỹ lưỡng tại các lớp học về nguyên tắc dịch vụ khách hàng của họ. Khi đến nhận việc trực tiếp tại cửa hàng, nhân viên mới sẽ phải "núp bóng" các nhân viên có kinh nghiệm và không được phép tự mình tương tác với khách hàng cho tới khi được công nhận là đã sẵn sàng để làm công việc này. Giai đoạn "thực tập" này có thể kéo dài hai tuần hoặc hơn.

Các nhân viên hỗ trợ kỹ thuật thậm chí được đào tạo nhiều hơn tại nhiều cơ sở của Apple trên toàn thế giới, sau đó được cấp chứng chỉ và thường xuyên bị kiểm tra kỹ năng. Ngôn ngữ được các kỹ thuật viên sử dụng cũng là một vấn đề. Một cựu nhân viên kỹ thuật của Apple cho biết, họ được yêu cầu sử dụng từ "hóa ra là" thay vì "chẳng may" để giảm bớt tính tiêu cực khi không thể giải quyết một vấn đề kỹ thuật nào đó.

Tuy nhiên, lương nhân viên bán lẻ của Apple cũng chỉ ngang với ở các hãng bán lẻ khác. Các nhân viên bán hàng được trả 9-15 USD mỗi giờ làm việc, các nhân viên hỗ trợ kỹ thuật được trả 30 USD. Một số nhân viên làm tại các gian bán lẻ của Apple muốn leo lên vị trí nào đó trong công ty, nhưng nhận ra là rất hiếm có cơ hội cho họ. 
 
Theo VnEconomy