Saturday, February 4, 2012

Đầu tiên trên thị trường không quan trọng bằng đầu tiên trong tâm trí khách hàng


Trong mẫu quảng cáo truyền hình gần đây của thương hiệu sữa TH, hãng này đã nhấn mạnh rằng “sữa sạch” của mình bắt nguồn từ những đồng cỏ xanh và công nghệ hiện đại.
Thông điệp quảng cáo này đã châm ngòi một làn sóng phản đối từ các hãng sữa khác và ngạc nhiên hơn cả là từ chính Hiệp hội sữa Việt Nam. Họ lý luận việc TH milk tuyên bố sữa của họ sạch sẽ khiến người tiêu dùng cho rằng sữa của các hãng khác không sạch.first-brands
Thực tế, đây là một cáo buộc không có căn cứ và nóng vội.
Rõ ràng, không có bất cứ dấu hiệu vi phạm nào trong mẫu quảng cáo này. TH milk cũng  không có lời lẽ ám chỉ về đối thủ cạnh tranh của mình.
Tuy nhiên, những vấn đề đó không phải là mối quan tâm hàng đầu của những người làm marketing. Họ quan tâm nhiều hơn đến lý do thành công của chiến dịch quảng cáo này.
Điều mà TH milk đang thực hiện gọi là chiến lược quảng cáo giành lợi thế tiên phong. Theo đó, họ tuyên bố một đặc tính thông thường của sản phẩm sữa ( sữa sạch). Tất nhiên, mọi công ty sản xuất sữa đều có khả năng và cũng bắt buộc phải đáp ứng tiêu chuẩn này. Vấn đề ở chỗ không ai trong số họ nhận thức được việc cần phải tuyên bố điều này trên truyền thông đại chúng.
TH là công ty ĐẦU TIÊN tuyên bố và họ đã đi trước một bước so với các đối thủ gạo gội khi thực hiện điều này.
Chiến lược xây dựng thương hiệu kiểu này đã xuất hiện từ lâu trong marketing. Một thương hiệu cà phê nổi tiếng của Mỹ có slogan là: “Folger: cà phê trồng trên cao nguyên”. Thông điệp này không có gì mới lạ. Ai cũng biết tất cả các loại cà phê đều trồng trên cao nguyên. VarpoNet – một thương hiệu phát triển công  nghệ thông tin cũng có tuyên  ngôn “cung cấp dịch vụ truy cập Internet không dây”. Rõ ràng, đây là một chức năng cơ bản mà một công ty công nghệ thông tin có thể cung cấp.
Chỉ có điều trước Folger và VarpoNet, không có thương hiệu nào tuyên bố trên truyền thông đại chúng về điều này cả.
Vậy lợi ích ở đây là gì? Tất nhiên, còn có rất nhiều lợi ích đáng mơ ước khi thương hiệu biết sử dụng vũ khí đơn giản nhưng hiệu quả này.
Sạch là một đặc tính chung của các nhãn sữa. Tuy nhiên, khi TH milk là người đầu tiên danh xưng rằng họ là thương hiệu sữa sạch, đặc tính này đã trở thành một đặc điểm riêng của  TH trong tâm trí người tiêu dùng mặc dù hãng sữa này mới gia nhập thị trường không lâu. Trong một lớp học, khi một em học sinh xung phong đứng lên phát biểu, ý kiến đó mặc nhiên là được coi của riêng em cho dù trong lớp có thể có nhiều em khác cũng biết được điều này.
Đặc điểm này mang lại cho TH một liên tưởng giá trị (sạch) khi khách hàng nghĩ về thương hiệu này. Điều này hoàn toàn đúng với một trong 22  nguyên tắc  bất biến trong xây dựng thương hiệu – Đầu tiên trong tâm trí khách hàng tốt hơn nhiều so với xuất hiện đầu tiên trên thị trường (22 nguyên tắc bất biến trong marketing, Al Ries & Jack Trout)
Cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng, thương hiệu TH milk bỗng nhiên được giới truyền thông nói đến rất nhiều mà không mất một đồng quảng cáo nào. Trong thời buổi khủng hoảng, đó là một phần thưởng đáng giá cho họ.
Những câu chuyện thương hiệu như thế này ở Việt Nam là rất phổ biến bởi ngành marketing của chúng ta vẫn còn khá non trẻ và cơ hội luôn chờ đón những thương hiệu biết vận dụng sáng tạo những quy luật đã được trải nghiệm từ rất lâu trên thế giới.
Nếu bạn là một người làm marketing, bạn nên bắt tay ngay vào tìm hiểu nghiên cứu, xem liệu đặc tính nào của thương hiệu có thể giúp bạn trở thành đầu tiên trong tâm trí khách hàng hay không. Bằng cách áp dụng chiến lược đơn giản này, bạn biết biến một thuộc tính chung thành thuộc tính thương hiệu của riêng bạn, đó sẽ là cơ hội tuyệt vời để trở nên khác biệt.
Trong cuộc sống cũng như xây dựng thương hiệu, cái gì đầu tiên cũng được nhớ lâu và sẽ theo cùng năm tháng. Ban có đồng ý vậy không?
(Nguyễn Đức Sơn - Brand Strategy Director – Richard Moore Associates)
(Thanh Phương - 
Theo Branddance)

Sách và thư viện


Thật sự tôi không có nhiều sách. Cách đây vài năm, với ước muốn đạt được phẩm chất cao nhất cho cuộc sống mà chỉ sở hữu tối thiểu, tôi đã thực hiện những sự lựa chọn nhất định. Điều này không có nghĩa là tôi chuộng lối sống của một tu sĩ; ngược lại, loại bỏ càng nhiều sở hữu của chính mình sẽ mang đến cho mình sự tự do lớn lao. Một số bạn bè của tôi (cả nam và nữ) than phiền rằng, bởi vì họ có quá nhiều quần áo, họ phí nhiều thời gian trong cuộc sống để quyết định sẽ mặc thứ gì. Giờ đây khi tôi đã làm cho tủ quần áo của tôi giảm thiểu đến ‘màu đen cơ bản’, tôi không còn có vấn đề này nữa.
 Tuy nhiên, ở đây tôi không nói về thời trang, mà nói về những cuốn sách. Trở lại với chủ điểm của tôi, tôi đã quyết định chỉ giữ bốn trăm cuốn sách trong thư viện của mình, một số bời vì giá trị về tình cảm, một số khác bởi vì tôi luôn luôn đọc lại chúng. Tôi quyết định như thế vì nhiều lý do khác nhau, và một trong những lý do đó là nỗi buồn khi nhìn thấy những thư viện, mà chủ nhân đã khổ công góp nhặt trong suốt cuộc đời, thường bị người ta đem đi bán tống bán tháo lúc chủ nhân qua đời, không biểu lộ một chút tôn trọng nào đối với họ. Ngoài ra, tại sao tôi lại giữ tất cả những cuốn sách này trong nhà? Phải chăng là để chứng tỏ cho bạn bè tôi biết rằng tôi đã trau dồi trí tuệ như thế nào? Hay là để trang hoàng những bức tường? Những cuốn sách tôi đã mua có lẽ hữu dụng ở một thư viện công cộng hơn là ở trong nhà tôi.
 Tôi thường nói rằng tôi cần những cuốn sách của tôi trong trường hợp tôi muốn truy lục điều gì đó. Tuy nhiên, giờ đây, khi tôi cần tìm một điều gì đó, tôi mở máy vi tính, gõ một vài chữ chủ yếu, và mọi điều tôi cần biêt hiện lên trên màn hình — nhờ sự ưu đãi của internet, cái thư viện vĩ đại nhất trên hành tinh này.
 Dĩ nhiên, tôi vẫn tiếp tục mua những cuốn sách mà phương tiện điện tử không thể thay thế cho chúng; nhưng ngay sau khi tôi đọc xong một cuốn sách, tôi cho nó ra đi; tôi đưa nó cho ai đó, hoặc đưa nó cho thư viện công cộng. Mục đích của tôi không phải là để bảo vệ rừng cây hoặc để làm một người hào phóng. Tôi chỉ tin một cách đơn giản rằng một cuốn sách có cuộc hành trình riêng của nó, và không nên bị buộc phải nằm kẹt trên một kệ sách.
 Là một người viết văn và sống bằng tiền nhuận bút, có lẽ tôi đang làm một việc có hại cho chính bản thân tôi; nói cho cùng, người ta mua càng nhiều sách, tôi kiếm được càng nhiều tiền. Tuy nhiên, điều đó có thể không công bằng cho độc giả, đặc biệt trong những đất nước mà phần lớn ngân quỹ chính phủ bỏ ra để mua sách cho các thư viện thì rõ ràng không dựa trên hai tiêu chuẩn chính để có một sự lựa chọn nghiêm túc — niềm vui thích mà độc giả được hưởng khi đọc một cuốn sách, và phẩm chất của văn chương.
 Hãy cho những cuốn sách của chúng ta tự do du hành, để rồi chúng được những bàn tay khác chạm vào, và được những đôi mắt khác thưởng thức. Trong lúc tôi viết điều này, tôi thoáng nhớ lại một bài thơ của Jorge Luis Borges nói về những cuốn sách không bao giờ được giở ra một lần nữa.
 Bây giờ tôi đang ở đâu? Đang ngồi trong một quán café ở một thị trấn nhỏ thuộc miền Pyrénées của nước Pháp, thoải mái với máy điều hoà không khí, bởi vì ngoài kia trời nóng không chịu nổi. Tôi có đầy đủ những cuốn sách của Borges ở nhà tôi, chỉ cách nơi tôi ngồi viết bài này chừng vài cây số — Borges là một trong những tác giả mà tôi không ngừng đọc đi đọc lại. Nhưng tại sao tôi không đem cái lý thuyết của mình ra thực hành thử xem sao?
 Tôi băng qua đường và đi bộ khoảng năm phút, đến một quán café khác, quán này có trang bị những máy vi tính (một cái quán được biết bằng cái tên dễ nghe, nhưng lại nghịch lý, là ‘cyber-café’). Tôi chào người chủ quán, gọi một ly nước khoáng ướp lạnh, mở google, và gõ vài chữ của một câu thơ mà tôi còn nhớ, cùng với tên của tác giả. Chưa đầy hai phút, tôi có được cả bài thơ trước mặt tôi:

Có một câu thơ của Verlaine mà giờ đây tôi không còn nhớ nổi
Có một đường phố gần kề mà chân tôi không thể bước đến nơi
Có một tấm gương đã soi vào mặt tôi một cái nhìn trăn trối
Có một khung cửa lần cuối cùng tôi đã đóng lại rồi
Giữa những cuốn sách trong thư viện tôi (ngay giờ đây tôi có thể nhìn thấy chúng)
Có vài cuốn tôi sẽ chẳng bao giờ giở ra một lần nữa trong đời.

Tôi có cảm giác giống như vậy đối với nhiều cuốn sách mà tôi đã cho đi: tôi sẽ chẳng bao giờ giở chúng ra lần nữa, bởi vì những cuốn sách mới và thú vị đang được liên tục xuất bản, và tôi thích đọc sách. Giờ đây, tôi nghĩ thật là tuyệt vời nếu ai cũng có thư viện; nói chung, một đứa trẻ tiếp xúc với sách lần đầu tiên vì nó tò mò muốn khám phá những pho đóng bìa cứng trong đó có chứa những hình vẽ và chữ; nhưng tôi cũng có cảm giác tuyệt vời như thế khi một độc giả, trong một buổi ra mắt sách mới, bước đến tôi, cầm theo một cuốn sách cũ của tôi đã tả tơi vì đã được chuyền tay từ người bạn này đến người bạn khác hàng chục lần. Điều này có nghĩa là cuốn sách đã du hành cũng giống như tâm trí tác giả của nó đã du hành trong khi ông ta đang viết ra nó.

Thư viện
Paulo Coelho
Bản dịch của Hoàng Ngọc Trâm & Hoàng Ngọc-Tuấn
—————–
Dịch theo bản tiếng Anh của Margaret Jull Costa, “Of Books and Libraries”, trong Paulo Coelho, Like the Flowing River: Thoughts and Reflections (Sydney: HarperCollins, 2007), 71-74.

Những điều hối tiếc của người sắp lìa đời


Bài này của một chị người Úc tên Bonnie Ware. Chị ấy làm nghề “palliative care”, chăm sóc sức khỏe cơ thể lẫn tinh thần cho người bị bệnh nặng, nằm nhà chờ chết. Thời gian qua các bệnh nhân đã tâm sự với chị ấy nhiều điều, trong đó có những hối tiếc thật sự xúc động. (Bài được một người bạn của tôi dịch sang tiếng Việt, dưới là link bài gốc tiếng Anh). Joe.
www.inspirationandchai.com/Regrets-of-the-Dying.html
Tôi có nhiều năm công tác trong lĩnh vực chăm sóc giảm nhẹ nỗi đau cho người bệnh. Đa số bệnh nhân của tôi đã về nhà nằm chờ thần chết mang đi. Có một vài kỷ niệm đặc biệt thật sự ấn tượng khi tôi chăm sóc họ trong quãng thời gian từ 3 đến 12 tuần cuối của cuộc đời mỗi bệnh nhân.
Người ta dường như trưởng thành hơn khi đối mặt với cái chết. Tôi học được một điều rằng không nên đánh giá thấp khả năng có thể xảy ra sự thay đổi của một ai đó. Một số người thay đổi đáng kinh ngạc. Mỗi người đều trải qua một chuỗi những cảm xúc khác nhau từ mong đợi, từ chối, sợ hãi, giận dữ, hối hận đến từ chối lần nữa và cuối cùng là chấp nhận sự thật. Mỗi người trong số họ đều tìm thấy sự bình yên của mình trước khi rời khỏi cõi đời. Tất cả họ đều như vậy.
Khi được hỏi rằng điều gì làm cho họ hối tiếc hoặc nếu được làm lại liệu họ có làm khác đi không, có một số chủ đề rất quen thuộc luôn được đề cập tới. Và sau đây là 5 tình huống trả lời phổ biến nhất:
1. Ước gì tôi đủ can đảm để sống một cuộc sống cho bản thân mình, không phải sống cuộc đời mà người khác trông chờ ở tôi
Đây gần như là điều mà mọi người hối tiếc nhất. Càng gần với cái chết, người ta càng nhận thấy mình có quá nhiều ước mơ còn dang dở. Hầu như mọi người đã không cho phép mình thực hiện thậm chí là chỉ một nửa ước mơ của mình, để rồi họ phải chết trong cảm giác điều đó là do họ đã hoặc chưa thực hiện.

Hãy cố gắng và trân trọng ít nhất một vài ước mơ của mình trong hành trình cuộc đời bạn, điều này rất quan trọng. Đừng để khi bạn ốm đau bệnh tật mới nhận ra điều đó, đã quá muộn rồi. Sức khỏe mang lại cho bạn sự tự do thoải mái mà rất ít người nhận ra, cho đến khi bạn không còn sở hữu được nó.
2. Ước gì tôi đã không làm việc quá cật lực
Đây là câu trả lời của nhiều nam bệnh nhân mà tôi chăm sóc. Họ đã bỏ lỡ thời niên thiếu của con cái mình và bỏ phí luôn cả khoảng thời gian êm đềm bên cạnh người bạn đời của mình. Nữ bệnh nhân cũng hối tiếc về điều này. Nhưng đa số câu trả lời đến từ thế hệ người lớn tuổi, những người phụ nữ không phải là trụ cột gia đình. Đa số những người đàn ông tôi chăm sóc đều rất hối tiếc vì đã mất quá nhiều thời gian quay cuồng trong công việc.
Bằng cách đơn giản hóa cuộc sống và thực hiện những chọn lựa tỉnh táo thì bạn sẽ không quan tâm đến vấn đề thu nhập như bây giờ. Và bằng cách tạo ra nhiều không gian hơn trong cuộc sống, bạn sẽ trở nên hạnh phúc hơn và cởi mở hơn với các cơ hội mới, những cái phù hợp với lối sống mới của bạn.
3. Ước gì tôi đã can đảm biểu lộ những cảm xúc của mình
Rất nhiều người tự kiềm nén cảm xúc chỉ vì muốn giữ hòa bình với những người khác. Kết quả là, họ chấp nhận một cuộc sống tầm thường và không bao giờ trở thành những người mà họ thực sự có khả năng trở thành. Nhiều căn bệnh liên quan đến sự cay đắng và oán giận mà họ phải gánh chịu.
Chúng ta không thể kiểm soát được phản ứng của người khác. Ban đầu mọi người có thể phản ứng khi thấy bạn thay đổi, nhưng khi bạn nói chuyện một cách trung thực thẳng thắn, thì có thể mối quan hệ của bạn sẽ được nâng lên một tầm cao mới và bền chặt hơn. Hoặc có thể là mối quan hệ lỏng lẻo này sẽ biến mất khỏi cuộc sống của bạn. Dù cái nào xảy ra đi chăng nữa, bạn cũng là người chiến thắng.
4. Ước gì tôi vẫn giữ liên lạc với bạn bè của mình.
Thường thì họ sẽ không thực sự nhận ra sự quan trọng cần thiết của những người bạn cũ cho đến những tuần cuối cùng khi cái chất cận kề và đến lúc ấy thì không dễ dàng gì để liên lạc gặp gỡ. Nhiều người bị cuốn vào cuộc sống riêng của mình và để cho tình bạn quý giá trượt dốc trong những năm qua. Nhiều người đã rất hối tiếc về việc không dành nhiều thời gian cho tình bạn và nỗ lực vì mối quan hệ này. Mọi người đều nhớ đến bạn bè của mình khi đang chết dần đi.
Điều này rất phổ biến với những ai đang quay cuồng trong cuộc sống bận rộn mà không nhận ra mối quan hệ bạn bè của mình trượt dốc. Nhưng khi bạn đang phải đối mặt với cái chết đến gần, các chi tiết thực tế trong cuộc sống sẽ mất đi sự quan trọng. Tất nhiên với nhiều người, nếu có thể thì họ muốn giải quyết cho xong các vấn đề về tài chính. Bản thân các vấn đề đó không thật sự quan trọng với họ; họ muốn làm những điều đó cho lợi ích của những người mà họ yêu thương. Nhưng thường họ quá yếu và không đủ sức đảm nhiệm công việc này. Những gì còn lại trong những tuần cuối cùng luôn chỉ là tình yêu và các mối quan hệ.
5. Ước gì tôi đã để cho bản thân mình được hạnh phúc hơn.
Điều này thật đáng ngạc nhiên. Nhiều người cho đến cuối đời mới nhận ra rằng: hạnh phúc là một sự lựa chọn. Họ đã mắc kẹt trong các mô hình cũ và thói quen. Cái được gọi là “tiện nghi” quen thuộc tràn vào cảm xúc của họ, cũng như cuộc sống vật chất. Lo sợ thay đổi thì họ giả vờ cho người khác, và bản thân của họ, rằng họ cảm thấy hạnh phúc. Nhưng ẩn sâu bên trong, họ mong muốn cười đúng cách và được ngu ngốc trong cuộc sống của họ một lần nữa.
Khi đang trên giường bệnh, những gì người khác nghĩ về bạn là một chặng đường dài từ tâm trí của bạn. Tuyệt vời làm sao khi sẵn sàng đi tiếp và mỉm cười một lần nữa, rất lâu trước khi bạn sắp lìa đời.
Cuộc sống là sự lựa chọn. Đó là cuộc sống CỦA BẠN. Chọn một cách có ý thức, chọn một cách khôn ngoan, chọn một cách trung thực. Chọn lựa hạnh phúc.
Dâu Tây

Tuesday, January 31, 2012

Xã hội muốn phát triển phải có tri thức & lòng trắc ẩn


Xã hội muốn phát triển phải có tri thức & lòng trắc ẩn

31/01/2012 16:21 GMT+7
Theo : Doanhtri.vn
Chỉ có tri thức cũng chưa chắc đã có sự phát triển. Cần cả lòng trắc ẩn, lòng từ bi nữa.

Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã hội. Không có tri thức thì xã hội không phát triển được. Đấy là điều có vẻ hiển nhiên.

Tuy vậy, vấn đề không đơn giản như nó thoạt nhìn. Sự hiểu biết của loài người là động, chứ không phải tĩnh. Cũng có những hiểu biết có hệ thống hẳn hoi, nhưng hóa ra lại là những hiểu biết nhầm lẫn và nếu khăng khăng bám lấy và hành động theo những hiểu biết đó có thể dẫn đến tai họa. Sự tích tụ tri thức, như thế là một quá trình động và nếu không tỉnh táo thì không có gì đảm bảo rằng xã hội chắc chắn tiến lên theo chiều hướng "tiến bộ" (hiểu theo nghĩa phát triển theo hướng đi lên, tốt hơn trước) với sự tích tụ tri thức.

Các hiện tượng tự nhiên có vẻ hoàn toàn độc lập với tư duy của con người. Dẫu chúng ta có nghĩ gì về thời tiết, về mặt trăng, thì suy nghĩ đó cũng không ảnh hưởng đến diễn biến thời tiết hay sự chuyển động của mặt trăng và thủy triều, chẳng hạn. Thế nhưng, ngay cả sự hiểu biết của chúng ta về tự nhiên cũng được tích tụ dần dần và không thiếu những hiểu biết có hệ thống (tức là các lý thuyết về tự nhiên) cũng đã tỏ ra là sai lầm. Không bao giờ chúng ta có hiểu biết đầy đủ về tự nhiên. Tự nhiên luôn để ngỏ cho sự khám phá.

Đối với xã hội, tình hình có một điểm khác biệt căn bản. Con người có tư duy đóng vai trò cốt yếu trong xã hội. Nói cách khác, các hiện tượng xã hội không độc lập với tư duy của chúng ta và vì thế sự phát triển của xã hội không chỉ phụ thuộc vào hành động mà phụ thuộc rất nhiều vào chính tư duy của chúng ta. Nhận xét trên về tự nhiên càng đúng với xã hội: Không bao giờ chúng ta có hiểu biết đầy đủ về xã hội, không chỉ phải do hạn chế của trí tuệ chúng ta, mà chủ yếu bởi sự hiểu biết ấy trở thành phần cố hữu của xã hội. Xã hội luôn để ngỏ cho sự khám phá và bản thân sự khám phá, sự hiểu biết về xã hội lại làm cho xã hội thay đổi, thậm chí phức tạp thêm! Cho nên những người cho rằng mình đã nắm được quy luật phát triển của xã hội, là những người ngộ nhận, nếu không nói là kém hiểu biết.

Đã có những hiểu biết có hệ thống, được hỗ trợ bởi những mô hình toán học rất tinh vi, được dạy ở nhiều đại học danh tiếng và các tác giả của chúng đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý như giải Nobel chẳng hạn, các lý thuyết cho rằng thị trường luôn luôn đúng và không cần sự can thiệp của nhà nước. Cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 kéo theo khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đã cho thấy những hiểu biết có hệ thống ấy không hẳn đúng và việc mù quáng bám theo chúng có thể và đã dẫn đến tai họa.

Làm sao để cho những hiểu biết có hệ thống của chúng ta phản ánh ngày càng đúng hơn thế giới thực, giúp cho sự phát triển đích thực của xã hội? Hay có thể đặt câu hỏi ngược lại: Cái gì cản trở việc đó? Cách đặt vấn đề trước hướng dẫn chúng ta phải làm gì, cách đặt vấn đề sau hướng dẫn chúng ta phải dỡ bỏ hay khắc phục những cản trở nào. Không có tự do nghiên cứu, không có tự do ngôn luận, không có tranh luận, độc quyền chân lý... chắc chắn là những cản trở đối với sự tìm kiếm tri thức mới, đối với sự tích tụ tri thức, đối với việc loại bỏ những hiểu biết nhầm (dẫu có hệ thống), tức là cản trở sự phát triển xã hội.

Chỉ có tri thức cũng chưa chắc đã có sự phát triển. Cần cả lòng trắc ẩn, lòng từ bi nữa. Có thể kể ra rất nhiều thí dụ về việc sử dụng tri thức để làm hại con người, để kéo lui hay phá hủy sự phát triển: Từ chiến tranh, hủy hoại môi trường, bóc lột con người, lừa đảo, tham nhũng, đến làm giàu bất chính...

Lòng trắc ẩn, lòng từ bi thường được hiểu là tình cảm thương xót, đồng cảm, thấu hiểu và chia sẻ những nỗi thống khổ và vô thường của những người khác (rộng ra là của con người và vạn vật). Nó là một đức hạnh căn bản và được tất cả các tôn giáo răn dạy. Thiếu tình thương, lòng trắc ẩn, lòng từ bi, thiếu khía cạnh này của đời sống tâm linh thì sự phát triển xã hội là một sự phát triển không xứng đáng.

Nếu hiểu như nhà kinh tế học Ấn Độ, đoạt giải Nobel, Amartya Sen hiểu, sự phát triển với tư cách là tự do, thì để có sự phát triển xã hội, cần đến tri thức, đến khoa học để tạo ra và hệ thống hóa tri thức và đến lòng trắc ẩn. Khoa học và tôn giáo, nhất là Phật giáo, không nhất thiết đối lập nhau như có người đã rao giảng. Khoa học, tri thức giúp chúng ta tạo dựng cuộc sống vật chất ngày càng sung túc hơn. Khía cạnh tâm linh của cuộc sống cũng quan trọng không kém.

( Nguyễn Quang A - Nguồn: Lao động)

Câu chuyện trí thức hay là bàn về trách nhiệm xã hội của những người hiểu biết?


Câu chuyện trí thức hay là bàn về trách nhiệm xã hội của những người hiểu biết?

 
30/01/2012 15:52 GMT+7
Theo : Doanhtri.vn
Bàn về trí thức hay bàn về vai trò của trí thức thực chất cũng chính là bàn về trách nhiệm xã hội của những người hiểu biết. 

Trí thức và vai trò của trí thức” hay “câu chuyện về trí thức” là một đề tài không mới, nhưng chưa bao giờ cũ. Đây cũng là một đề tài rất phức tạp và dễ gây tranh cãi, nhưng là một đề tài đầy ý nghĩa đối với bất cứ xã hội nào, trong bất cứ thời đại nào. Có rất nhiều góc nhìn khác nhau về trí thức, mỗi góc nhìn lại cho ta một cách hiểu về trí thức và vai trò của trí thức. Nếu ta có được nhiều góc nhìn về một vấn đề thì ta sẽ có cơ hội hiểu vấn đề đó một cách đầy đủ và sâu sắc hơn, vì khi đó không chỉ thấy “cây”, mà còn thấy “rừng”.

Trong phạm vi bài viết này, từ một góc nhìn, tôi cho rằng, trí thức người có trí và luôn dùng cái trí của mình để góp phần thức tỉnh xã hội nhằm hướng mọi người đến cái đúng và cái đẹp. 

Nếu ai đó “có trí” (sự hiểu biết) nhưng lại “không thức” (không thức tỉnh xã hội) mà để cho xã hội “ngủ” thì bị gọi là “trí ngủ”, chứ không phải là “trí thức”. Nếu ai đó thích làm cái việc của trí thức là “đánh thức xã hội” nhưng lại “thiểu trí”, “lệch trí” hay “vô trí” thì gọi là “trí dỏm” (cũng có học hàm, học vị nhưng đầu óc lại trống rỗng, hoặc cũng có chút hiểu biết nhưng hiểu biết đó lại thể hiện sự lệch lạc và ấu trĩ). Và nếu ai đó “có trí”, “có thức”, nhưng “thiếu tâm” (thiếu động cơ trong sáng) thì gọi là “trí gian” (gian manh, xu thời, cơ hội). Cả 2 loại “trí dỏm” và “trí gian” đều là “ngụy trí thức”, còn “trí ngủ” là “trí thức vô trách nhiệm”.


Có thể hình dung ba điều kiện để hình thành một con người “trí thức”, đó là: (1) “sự hiểu biết” (có trí); (2) “thức tỉnh xã hội”; và (3) “vì mục đích cao quý” (hướng xã hội đến cái đúng và cái đẹp, hướng xã hội đến cái chân-thiện-mỹ). Nếu không hội đủ cả 3 điều kiện này (mà chỉ có 1 hay 2 trong 3 điều kiện) thì hoặc là “trí ngủ”, hoặc là “trí dỏm”, hay “trí gian”, chứ không phải là “trí thức”. Hay nói một cách nôm na, trí thức là người “có Trí”, “có Thức” và “có Tâm” (có 3T).

Từ cách hiểu này, chúng ta có thể thấy rằng, bàn về trí thức hay bàn về vai trò của trí thức thực chất cũng chính là bàn về trách nhiệm xã hội của những người hiểu biết.

Tôi rất thích một câu nói của Einstein “Thế giới này là một nơi nguy hiểm, không phải vì những kẻ xấu xa mà vì những người chỉ biết đứng nhìn và không làm gì cả”. Câu nói này nói về trách nhiệm xã hội (trách nhiệm “làm người”) của một người bình thường đối với cái xã hội hay cái cộng đồng mà mình đang sống. Một người bình thường vô cảm thì đáng phê phán, còn một người có hiểu biết sâu sắc và được lắng nghe mà yên lặng thì còn đáng phê phán hơn. Một người bình thường còn có trách nhiệm xã hội như vậy, đối với những người có hiểu biết thì trách nhiệm xã hội này còn lớn hơn.

Nói cách khác, vai trò của những người có hiểu biết là: dùng sự hiểu biết (và cả uy tín) của mình để góp phần giúp cộng đồng phân định rõ hơn sự đúng-sai, phải trái, chân-giả, thiện-ác, hay-dở, tốt-xấu, nên-không nên… trước những vấn đề chung mà xã hội đã, đang và sẽ gặp phải hay trải qua; dùng sự hiểu biết của mình để truyền bá tinh thần, tư tưởng, quan điểm mà mình tin là cần thiết để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần xác lập những chuẩn mực xã hội, những thang giá trị xã hội và đồng thời ra sức bảo vệ những chuẩn mực và giá trị đó; dùng sự hiểu biết của mình để góp phần định hướng, định hình xã hội… Tất nhiên sự phân định, sự truyền bá, sự xác lập hay sự định hướng, định hình này cũng cần phải dựa trên cái nền là những giá trị vượt không gian và vượt thời gian, những giá trị có tính phổ quát của thế giới đương đại hay thế giới tương lai.

Và tất nhiên, để thực hiện trách nhiệm xã hội của mình thì người hiểu biết có thể nói, có thể viết, hay có thể làm gì đó (bởi lẽ không phải tất cả những người hiểu biết đều giỏi nói hay giỏi viết). Vì làm một điều tốt cũng là cách gián tiếp góp phần đấu tranh tiêu diệt cái xấu; làm một điều đúng, cũng là cách gián tiếp góp phần chỉ cho người khác thấy những cái sai…

Thêm nữa, khi nói đến trí thức là nói đến vấn đề “chân lý”. Không ai được phép độc quyền chân lý, nhưng ai cũng được quyền góp phần xác lập chân lý. Giới trí thức thường tự phân biệt giới mình với những giới khác ở chỗ luôn nỗ lực khám phá chân lý, xác lập chân lý và bảo vệ chân lý. Đó cũng là lý do vì sao mà người ta thường nói, chân lý thường không thuộc về số đông hay “kẻ mạnh”, mà thường thuộc về những người có hiểu biết (hay còn gọi là giới trí thức, giới tinh hoa). Nếu chân lý có thuộc về “kẻ mạnh” (nhưng thiếu hiểu biết, thiếu tâm trong sáng) thì điều đó chắc chắn cũng chỉ là tạm thời mà thôi.

Khi bàn về trí thức thì người ta thường bàn về vai trò, trách nhiệm, công việc, sứ mệnh, thiên chức của trí thức. Tuy nhiên, cũng cần phải bàn về “điểm mù” của trí thức, dù trí thức có cái trí hơn người. Bởi lẽ, trí thức cũng là con người, mà đã là con người thì cũng sẽ có cái nhầm, có lúc sai mà mình không hề biết; Bởi lẽ, trí thức cho dù có trí thế nào đi nữa thì sự hiểu biết vẫn chỉ là hữu hạn. Điểm mù ở đây được hiểu là “mình không biết cái mà mình không biết” hay “mình cứ tưởng mình hiểu rất rõ một thứ nhưng thực ra mình chẳng hiểu gì cả hay hiểu một cách lệch lạc”. Khi chia sẻ, tranh luận hay góp ý sẽ giúp mỗi người nhìn thấy điểm mù của người và của mình. Khi nhận ra điểm mù của mình cũng là lúc “mình biết rõ cái mà mình không biết”; và khi nhận ra những “cái mà mình không biết” cũng là lúc cảm thấy mình thực sự hiểu biết. Đó cũng là điều kiện để mình có thể hiểu biết thực sự và là cơ hội để đẩy nhận thức và hiểu biết của mình đi xa hơn.

Do vậy, cùng với trách nhiệm “thức tỉnh xã hội” thì trí thức cũng có một trách nhiệm với bản thân là liên tục “phản tỉnh chính mình”, phản tỉnh với những điểm mù (nếu có) của mình. Nếu không liên tục “phản tỉnh chính mình” hay thậm chí là “phản tư chính mình” thì người hiểu biết sẽ dễ trở thành người ít hiểu biết hay người ấu trĩ trong một số vấn đề (kể cả những vấn đề thuộc chuyên môn hay sở trường của mình), và khi đó sẽ không chỉ khó thực hiện được tốt cái vai trò “thức tỉnh xã hội” vốn có của mình, mà còn có thể gây nguy hại cho xã hội.
Ở bất cứ xứ nào, thời nào thì sứ mệnh của trí thức vẫn thế. Và đối với những xã hội mà trong đó còn đầy rẫy sự bất thường thì một trong những sứ mệnh lớn nhất của trí thức chắc hẳn là góp phần đưa sự bất thường đó trở về sự bình thường. Nói cách khác, trong những xã hội mà sự bất thường còn bao trùm, sự vô minh của cái đầu và vô cảm của trái tim đang ở tình trạng báo động thì trách nhiệm của người trí thức, của những người có hiểu biết còn nặng nề hơn (vì có quá nhiều cái cần phải khai sáng, cần phải thức tỉnh) và nguy hiểm hơn (vì không dễ dàng gì để làm cái chuyện khai sáng hay thức tỉnh trong những xã hội này).

Nhưng, đã là người có hiểu biết thì không thể không làm gì cả, bằng cách này hay cách khác, dù nhỏ bé hay lớn lao, dù ồn ào hay lặng lẽ…

(GIẢN TƯ TRUNG - Nguồn: Tạp chí Tia Sáng Sài Gòn, 25/01/2012)

Gặp 5 nữ CEO thành đạt đi lên từ hai bàn tay trắng

Với một xuất phát điểm thấp, nhưng họ đã vượt qua chính mình, chinh phục thương trường và đạt được những thành công vang dội. Họ là ai?

Bên cạnh trí thông minh "bẩm sinh" trời phú cùng một chút may mắn trong cuộc sống, họ đã phải làm việc rất chăm chỉ, thậm chí cật lực mới có thể tự bẻ lái cuộc đời mình từ một người nghèo khổ thành một doanh nhân thành đạt.

Hãy cùng nhìn lại câu chuyện cuộc đời của 5 nữ doanh nhân thành đạt, đi lên từ hai bàn tay trắng dưới đây:

1. Chong Phit Lian, Tổng Giám đốc điều hành hãng hàng không Jetstar Asia
Gia đình của Chong Phit Lian từng phải sống trong cảnh vật lộn với các vấn đề về tài chính sau khi cha bà - người được xem là trụ cột của gia đình - qua đời trước khi bà tốt nghiệp trung học cơ sở. Trong khi một số anh chị em khác của bà quyết định bỏ học để đi làm thì người phụ nữ sinh ra ở Malaysia này đã cố gắng tự xoay sở để được tới Singapore tiếp tục theo đuổi sự nghiệp đèn sách của mình.
Gặp 5 nữ CEO thành đạt đi lên từ hai bàn tay trắng

Để tự trang trải cuộc sống và nộp học phí cho mình, ngoài việc xin trợ cấp, kiếm học bổng, bà Chong còn đi làm thêm các công việc như gia sư. Sau khi học xong ở đây vào năm 1975, người phụ nữ đầy nghị lực ấy đã làm cùng lúc 3 công việc: trợ lý kĩ thuật, bán bảo hiểm và gia sư để kiếm đủ tiền theo học tại 1 trường đại học ở Birmingham (Anh).

Trong suốt quãng thời gian ở Anh, những khó khăn chồng chất vẫn cứ dai dẳng theo đuổi bà khiến bà vừa phải lo học, vừa đi làm thêm bán thời gian trong một nhà máy. Hiếm ai biết rằng, có những lần sát nút hạn chót nộp học phí, nhưng do chưa xoay sở đủ tiền, bà đã phải vay chính thầy giáo của mình để nộp.

Tuy nhiên, tất cả giờ đã qua đi và bà đã vượt qua chính mình, chiến thắng số phận để trở thành nữ Tổng giám đốc điều hành đầy quyền lực của Jetstar Asia. Chia sẻ về bản thân, bà Chong nói: "Tôi có một tinh thần làm việc bất diệt. Tôi luôn cố gắng hết sức dù cho có những việc mà mọi người hay nói là ...không tưởng hoặc cho rằng khó có thể thực hiện được".

2. Olivia Lum, Chủ tịch công ty xử lý nước lớn nhất Đông Nam Á - Hyflux
Ngày 9/1/1961, Olivia Lum bị bỏ rơi ngoài hành lang một bệnh viện nhỏ ở Perak, Malaysia. Nhưng hiếm ai ngờ rằng, đứa trẻ bị bỏ rơi ấy, từ bụi đời lại có thể trở thành người phụ nữ giàu nhất nhì Đông Nam Á.
Gặp 5 nữ CEO thành đạt đi lên từ hai bàn tay trắng


Không giống như câu chuyện cuộc đời của hầu hết các doanh nhân thành đạt khác, bà Lum khởi nghiệp từ chính những nỗi thống khổ trong cuộc sống của mình - một đứa trẻ luôn lo lắng rằng một ngày nào đó, trên bàn sẽ không có thức ăn hoặc không còn chỗ nào để ở.

Kí ức dọc tuổi thơ của bà Lum là sự đói khổ đến kinh hoàng. Mẹ nuôi của Lum, người mà cô thường gọi là "bà nội", đã phải bán nhà vì thua bạc rồi đưa Lum đến sống tại một lán gỗ tồi tàn ở Kampar, Malaysia. Cả hai người họ luôn sống trong nỗi lo sợ một ngày nào đó sẽ trở thành kẻ vô gia cư và sống trong cảnh đói rét.
Thêm vào đó, ngôi lán họ ở lại không bao giờ có đủ nước sinh hoạt, chỉ có nước mưa là không ngừng xối xuống nền trong những ngày bão gió. Rồi người mẹ nuôi - người thân duy nhất của bà Lum cũng qua đời, bỏ mặc bà giữa ngổn ngang những chông gai trong cuộc sống.
Gặp 5 nữ CEO thành đạt đi lên từ hai bàn tay trắng

Tuy nhiên, cái khốn khó của ngày ấy đã không làm Lum sụp đổ, trái lại, bà nung nấu một ý chí vươn lên mãnh liệt để thành công. Bà cũng từng tới Singapore để học. Thời sinh viên, Lum đã phải làm đủ nghề để kiếm sống và trang trải chuyện học hành.

Sau khi tốt nghiệp, với 12 nghìn USD có được sau hơn 3 năm làm việc chăm chỉ, bà đã thành lập Công ty Hyflux và cùng với 2 nhân viên, Lum bắt đầu bằng việc bán các thiết bị xử lý nước. Sau 3 năm phân phối sản phẩm cho các công ty, Lum chuyển sang bán hệ thống xử lý nước do chính mình sản xuất. Còn hiện giờ, bà đang là Chủ tịch công ty xử lý nước lớn nhất Đông Nam Á - Hyflux.

3. Annie Gan - Tổng Giám đốc điều hành Công ty xây dựng Jian Huang
Tất cả những gì mà bà Annie Gan mong muốn có được khi bà đặt chân tới Singapore cách đây hơn 18 năm chỉ là có một công việc tốt, kiếm đủ tiền để nộp học phí cho khoá học bán thời gian của bà ở đây.

Năm 21 tuổi, sau 2 năm ở cấp trung học phổ thông, bà vượt qua kì thi Sijil Pelajaran Malaysia (Kỳ thi Cấp Chứng chỉ Malaysia) và đến đất nước này vào năm 1992. Tại đây, bà làm việc với vai trò trợ lý (thư kí) cho một nhà thầu phụ.
Gặp 5 nữ CEO thành đạt đi lên từ hai bàn tay trắng

Người phụ nữ đầy nghị lực, tài năng này hồi tưởng lại: "Hồi đó, tôi làm tất cả mọi việc được giao, thậm chí ôm thêm cả phần việc của các đồng nghiệp lúc bấy giờ mà không hề than phiền gì cả bởi vì tôi rất ...khát chữ".
Bà Annie của lúc bấy giờ chẳng dám mơ ước cao xa về một tương lai tươi đẹp như hiện tại. Tuy nhiên, bằng tài năng và sự nỗ lực không ngừng nghỉ của mình, ngày nay bà đã trở thành Tổng giám đốc điều hành một công ty xây dựng "triệu đô" với tốc độ tăng trưởng ... 'chóng mặt'.

4. Linda Onn - Bà chủ một nhà hàng sang trọng đồng thời cũng là một người nổi tiếng
11 năm trước, cô nàng Linda Onn khởi nghiệp với công việc của một nhân viên văn phòng, nhận mức lương chỉ khoảng 296 USD Singapore/tháng. Tuy nhiên, nhờ nhan sắc hơn người, không lâu sau đó cô nàng nhận được lời mời trở thành người mẫu quảng cáo cho nhiều sản phẩm trên truyền hình. Kể từ đó, khoản tiền tích luỹ của Onn ngày một tăng lên.
Gặp 5 nữ CEO thành đạt đi lên từ hai bàn tay trắng

Trên thực tế, cách đây 6 năm, cô nàng đã sở hữu một khối tài sản "kếch sù" nhờ việc quảng cáo các sản phẩm trên truyền hình mà chưa biết dùng tiền vào việc gì.

"Rồi tôi quyết định lấn sân sang lĩnh vực kinh doanh. Sau nhiều suy tính, tôi quyết định  mở một nhà hàng gia đình bởi vì bố mẹ tôi có kinh nghiệm kinh doanh ở lĩnh vực này. Thêm vào đó, hầu hết các thành viên trong gia đình tôi đều nấu ăn khá ổn", Onn tâm sự.

Từ hai bàn tay trắng, nhờ biết tích luỹ tiền của và có chí lớn, dám dấn thân theo đam mê mà giờ đây Onn đã trở thành bà chủ của 5 nhà hàng sang trọng.

5. Jennie Chua - Chủ tịch Tập đoàn Ascott (Singapore)
Khởi nghiệp khiêm tốn với đồng lương "còm cõi" của một giáo viên tại trường trung học St Margaret (Singapore) vào những năm 1960, ít ai ngờ rằng bà Jennie Chua sau này lại trở thành người phụ nữ đầy quyền lực giữ chức Chủ tịch tập đoàn Ascott.
Gặp 5 nữ CEO thành đạt đi lên từ hai bàn tay trắng

Chia sẻ về gia cảnh của mình, bà Jennie nói: "Tôi phải bỏ học giữa chừng khi đang là sinh viên đại học bởi vì gia đình tôi quá nghèo. Tôi phải nghỉ học để làm việc kiếm sống. Và công việc duy nhất phù hợp với tôi lúc đó chính là dạy học".

Năm 1971, bà Chua xin làm việc tại khách sạn Mandarin. Bà kể: "Tôi được trả 650 USD/tháng sau khi thương lượng. Ban đầu họ chỉ đồng ý trả tôi 400 USD, nhưng tôi đã từ chối. Quả thật 650 USD là một món tiền lớn đối với tôi lúc bấy giờ".

Giờ đây, người phụ nữ này không chỉ trở thành Chủ tịch tập đoàn Ascott mà còn là cổ đông lớn của nhiều công ty khác nữa.

Theo VTC

Doanh nhân Việt dám 'qua mặt' ông chủ Tây

Tôi đến tìm Trần Trọng Kiên vì một lý do duy nhất, anh là người nổi tiếng trong năm 2011 vì thương vụ mua lại hệ thống Victoria Hotels & Resorts. Nhưng gặp rồi mới biết, ở doanh nhân trẻ này, có rất nhiều điểm thú vị.


1. "Sợ!". Đó là câu trả lời của Trần Trọng Kiên, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần du lịch Thiên Minh khi tôi hỏi về cảm giác của anh vào thời điểm Thiên Minh nhận chuyển giao hệ thống Victoria Hotels & Resorts sau thương vụ mua bán và sáp nhập (M&A) thuộc diện đình đám nhất trong năm 2011.

Thực ra tôi chờ đợi một câu trả lời khác. Rằng, anh vô cùng tự hào bởi lần đầu tiên một công ty du lịch VN đã "dám" mua lại hệ thống khách sạn của một doanh nghiệp nước ngoài (Công ty EEM Victoria - Hồng Kông). Tất nhiên, làm được điều này cũng một phần là nhờ Thiên Minh nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các quỹ đầu tư. Chỉ riêng Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) đã hào phóng đầu tư cho anh 12 triệu USD. Nhưng đúng là, chuyện ấy chưa từng xảy ra ở VN. Bản thân tôi đôi lúc cũng tự hào vì điều đó khi nghe được điều này. Vậy mà Trần Trọng Kiên lại sợ.

Anh bảo, sợ không phải vì mình không có kinh nghiệm M&A, mà thực sự chưa bao giờ tham gia một thương vụ lớn như vậy. Lúc ấy, tài sản của Thiên Minh chỉ độ 500 tỷ đồng, vậy mà trị giá của thương vụ lên tới gần nghìn tỷ đồng (45 triệu USD, cộng với phí giao dịch). Thêm nữa, thương vụ ấy liên quan đến quá nhiều người. 1.250 người, anh có thêm từng ấy nhân viên sau ngày 14/2/2011, thời điểm Victoria Hotels & Resorts hoàn toàn thuộc về Thiên Minh.

Lo là phải, bởi dù đã nghiên cứu kỹ từ cuối năm 2009, khi một dịp rất tình cờ đang công du ở London, thì một thành viên Hội đồng quản trị Thiên Minh gọi điện bảo, Victoria muốn bán đó, có mua không, song đâu thể biết hết nội tại thực sự của Victoria thế nào? Liệu ban điều hành khách sạn hiện thời có sẵn sàng hợp tác? Chẳng biết M&A xong, thị trường có tốt không, hoạt động của hệ thống khách sạn đó sẽ ra sao? Liệu có thể hòa nhịp đập của Thiên Minh và Victoria?...


"Nhưng chỉ sau 3-4 tháng, cảm giác ấy không còn. Trả lời được tất cả các câu hỏi trên, tôi biết mình có thể lãnh đạo được hệ thống này", Trần Trọng Kiên tự tin thế và kể rằng, ngay sau khi thương vụ hoàn tất, anh đã bay về TP.HCM và đưa ra một thông điệp rất cụ thể rằng, các hợp đồng, chế độ, chính sách nhân sự của Victoria sẽ được giữ nguyên. Tất cả các vị trí quản lý khách sạn vẫn không thay đổi. "Nếu mình thật sự chuyên nghiệp, có tầm nhìn xa, có cam kết cao, và chẳng bao giờ muốn xóa bỏ một Victoria đã có, thì họ sẽ đồng thuận và ủng hộ", Trần Trọng Kiên nói thế.

Và quả đúng như vậy, sau gần một năm thuộc về Thiên Minh, hệ thống 6 khách sạn với 600 phòng của Victoria, ở Sapa, Châu Đốc, Phan Thiết, Cần Thơ, Hội An (Việt Nam) và Siêm Riệp (Campuchia) đã hoạt động rất tốt. Năm 2011, hệ thống này đóng góp khoảng 40% doanh thu cho Thiên Minh, tức là khoảng 400 tỷ đồng trong hệ thống 1.000 tỷ đồng.

Một thương vụ hời? Trần Trọng Kiên chỉ cười, rất sảng khoái, khi nghe câu hỏi đó. Anh bảo, hời hay không chỉ thị trường mới trả lời được. Còn hiện tại, anh hài lòng với thương vụ ấy, khi một Thiên Minh trẻ trung, thuần Việt đã và đang gắn bó tốt với một Victoria hiện đại hơn và rất Pháp. Trên cái nền tảng ấy, anh hi vọng Victoria sẽ phát triển mạnh hơn nữa trong tương lai và là một bộ phận không thể tách rời của Thiên Minh.
2. Thực ra, thương hiệu Thiên Minh không được nhiều người Việt biết tới. Nhưng Buffalo Tours thì chắc chắn là có. Đó chính là cái gốc đầu tiên của Thiên Minh ngày nay, được thành lập bởi chính Trần Trọng Kiên vào năm 1996, khi anh vừa tốt nghiệp ĐH Y Hà Nội. Ban đầu, chỉ là ý định rong chơi vài ba năm, rồi lại quay trở về với nghề y, vậy mà công việc cứ cuốn anh đi từ lúc nào không hay. "Cũng tại vì công ty lớn nhanh quá" và "cũng tại được bạn bè ủng hộ rất nhiều".

Làm du lịch chẳng cần có vốn, nếu mình biết tận dụng thị trường ngách. Suy nghĩ thế nên chỉ với 2.000 USD ban đầu, Trần Trọng Kiên đã lựa chọn một thị trường ngách, mà vào thời điểm ấy, ngay cả trên thế giới cũng chưa hẳn đã phát triển. Ấy là du lịch mạo hiểm và khám phá.

Ông Trần Trọng Kiên và một đối tác nước ngoài trong một buổi công bố hợp tác liên doanh (ảnh DĐDN)
Không đưa khách đến những địa điểm lừng danh ở đất Việt, Buffalo Tours chọn Mai Châu, với những đêm - ngày đưa du khách đến từng bản làng theo loại hình du lịch trekking (đi bộ dã ngoại). Rồi lại chọn Hạ Long, với du lịch trên biển bằng thuyền gỗ kayak. "Khách Tây" mê như điếu đổ". Thế là Buffalo Tours nổi như cồn và ... lớn nhanh như thổi.

"Chỉ độ 3-4 năm, tôi biết mình chẳng thể quay lại với nghề y. Đôi lúc cũng chạnh lòng, khi thấy giờ đây, bạn bè nhiều người đã trở thành những chuyên gia đầu ngành, người biết mổ tim qua Xquang, qua siêu âm; kẻ biết thông mạch vành, mà khi xưa khi còn là sinh viên, tôi cũng từng ao ước mình sẽ làm được vậy. Nhưng để nói lời hối tiếc, thì có lẽ là không... ".

Mỗi người đều có quyền lựa chọn con đường đi riêng của mình, quan trọng là đi đúng hướng và thành công. Nếu vậy, đúng là chẳng có gì phải "ngoảnh lại", khi mà giờ đây, Trần Trọng Kiên có trong tay rất nhiều thứ, mà quan trọng hơn hết, là lo được cho 2.000 nhân viên có thu nhập rất tốt.

Này nhé, ngoài một hệ thống Victoria vừa kể, một có một nền tảng quan trọng - Buffalo Tours một năm đưa đón 50.000 lượt khách, doanh thu chỉ trong năm 2011 đã là 600 tỷ đồng. Hồi đầu, tour đi Mai Châu, hay Hạ Long, có khi chỉ 1 ngày, thậm chí chỉ 1 tuần/chuyến, nay một ngày có tới cả năm bảy chục tour.

Buffalo Tours, Trần Trọng Kiên tự hào lắm để khoe rằng, là thương hiệu duy nhất của Việt Nam có văn phòng tại Australia, Anh, Mỹ, Thái Lan... Thương hiệu ấy được du khách gần xa, cả trong và ngoài nước biết đến. Hệ thống các khách sạn của Thiên Minh cũng làm ăn rất khấm khá. Ngoài ra, Thiên Minh của Trần Trọng Kiên còn có Mai Chau Lodge, Intrepid Vietnam, Jetwing Indochina, ivivu... trong tay, mà không nhiều người biết được điều này.

Và tổng tài sản, chỉ từ 2.000 USD ban đầu, giờ đã lên tới 75 triệu USD. Tất nhiên, không phải tất cả của riêng Trần Trọng Kiên, bởi vì từ năm 2008, anh đã quyết định cổ phần công ty của mình, sử dụng vốn đầu tư của một số quỹ đầu tư nước ngoài, để có thể tiến nhanh, tiến mạnh hơn ở thị trường trong nước và quốc tế.
Ấy là một bước ngoặt quan trọng của Thiên Minh. Những bước ngoặt khác, đó là vào năm 2003, khi ngoài làm du lịch, Thiên Minh đắt đầu chuyển sang kinh doanh khách sạn. Là 2005, bắt đầu hợp tác với quốc tế. Và tất nhiên, một bước ngoặt vô cùng quan trọng, đó là năm 2011 - khi Thiên Minh mua lại chuỗi khách sạn Victoria. Và sau mỗi bước ngoặt, Thiên Minh lại không ngừng trưởng thành? Không, trong mỗi bước tiến ấy, Thiên Minh cũng có những bước đi nhỏ chuệch choạc. Trần Trọng Kiên kể thế.

Ông Trần Trọng Kiên là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần du lịch Thiên Minh. Sáng lập ra thương hiệu Buffalo Tours vào năm 1996. Ở VN, ông được xem là người đi tiên phong trong việc đưa du lịch mạo hiểm vào 3 nước Đông Dương. Buffalo Tours hiện là một trong những thương hiệu tổ chức tour du lịch uy tín nhất VN. Bên cạnh đó, Thiên Minh còn sở hữu một loạt các thương hiệu khác như Mai Chau Lodge, Intrepid Vietnam, Jetwing Indochina và Victoria Hotels & Resorts.
Năm 1997 - 1998 chẳng hạn, Thiên Minh cũng tính chuyện đầu tư cho khách hưởng trải nghiệm thú vị là được nhảy dù. Nhưng hơn 1 năm chuẩn bị, bao công sức, tiền của bỏ ra, mà cuối cùng cũng phải thừa nhận, dịch vụ ấy chẳng thể thương mại hóa ở VN. Kế hoạch mở tour du lịch bằng khinh khí cầu cũng thế, rất nhanh chóng thất bại. Rồi ivivu, mở ra từ năm 2006, nhưng cuối cùng cũng là sai thời điểm. Chỉ đến bây giờ, trang web đặt khách sạn trực tuyến này mới có cơ phát triển mạnh mẽ.

"Thất bại là chuyện bình thường. Miễn là có đủ thông minh để biết mình đã sai", Trần Trọng Kiên nói và chẳng ngần ngại thổ lộ, trong tim anh còn ấp ủ nhiều dự định lắm. Bởi bây giờ dừng lại có nghĩa là thất bại. Anh muốn thương hiệu Thiên Minh được mọi người biết đến nhiều hơn. Muốn mở thêm nhiều khách sạn, kiểu "small luxury" (khách sạn sang trọng có diện tích phòng nhỏ), khách sạn boutique 4 sao và khách sạn tiện ích 3 sao. Muốn mở rộng các điểm đến chiến lược, muốn du khách của mình đến được nhiều hơn nữa với TP.HCM, Hà Nội, Siêm Riệp hay Hội An, Luang Phabang (Lào) và cả điểm mới hấp dẫn Sapa, Đồng bằng Sông Cửu Long... Và muốn Victoria Hotels & Resorts sẽ trở thành một thương hiệu 4 sao, gắn kết văn hóa Việt và Pháp, và là một thương hiệu hàng đầu của người VN.

3. Hỏi "muốn" có nhiều thế thì liệu có quá sức, Trần Trọng Kiên bảo, sức người đâu có thể đo đếm được. Điều quan trọng là tầm nhìn của mình, là thấy thị trường còn sẵn sàng cho sự phát triển của Thiên Minh. "Tôi vẫn còn dư sức để chiến đấu nhiều năm nữa", Trần Trọng Kiên cười vang nói.

Cũng phải, năm 2012, Trần Trọng Kiên mới tròn 39 tuổi, đủ độ chín để trưởng thành. Bởi thế, đâu đã dừng lại. Thêm nữa, giờ bên cạnh anh còn rất nhiều bạn bè, đồng nghiệp. Lúc khởi đầu, một mình anh lo tiếp thị, đón khách, kiêm cả chân trực điện thoại. Nhưng khi công ty dần lớn lên, quy mô càng lớn thì anh càng được bứt ra những "sự vụ" hàng ngày. Giờ, điều quan trọng với anh là lo vạch chiến lược cho tương lai, lo nhân sự và văn hóa doanh nghiệp. Đó là nền tảng quan trọng để Thiên Minh tiếp tục thành công.

Lại hỏi rằng, nếu được nói về mình, một câu thôi, anh sẽ nói thế nào, Trần Trọng Kiên chỉ cười hiền lành: "Tôi là một người chăm chỉ, cần cù, có tính kỷ luật tốt và có khả năng đoàn kết tốt mọi người trong một tập thể". Với anh, đó là điều quan trọng nhất để trở thành một doanh nhân thành công.

(Theo Báo Đầu tư số Tết)