Hiểu về cái chết, và những gì sau khi chết, sẽ giúp ta đi sát với cuộc sống hiện tại, sát với ý nghĩa cuộc đời này và hiểu rõ ta là ai.
Anh gửi các bạn một vài tổng hợp về Luân Hồi mà a tìm hiểu được. Các tôn giáo có quan niệm khác nhau về Luân Hồi, nhưng cơ bản, mọi tôn giáo đều chấp nhận Luân Hồi. Các bạn cùng THAM KHẢO nhé.
Tại sao lại làm tham khảo, vì mỗi tôn giáo đều có quan điểm khác nhau, và các bạnĐỪNG TIN NGAY bất cứ điều mà, mà hãy "tạm tin", để kiểm chứng với thực tế, nếu nó tốt cho mình, thì tạm thời chấp nhận,đến khi không tốt và không hợp nữa, thì đừng bám vúi vào nó, niềm tin sẽ được hình thành dần dần, qua thực tế, qua trải nghiệm các em sẽ tin.
Có thể khi đọc qua các bạn có nhiều chỗ chưa tin, có hiểu, hãy bỏ qua những "ngôn từ", ngôn từ chỉ là công cụ thôi, và đọc chỗ khác
Bài viết dưới theo anh hiểu thì được viết theo quan điểm THÔNG THIÊN HỌC, chứ không phải quan điểm của Phật Giáo nhé.
Dưới đây là phần tổng hợp nhỏ của anh. Các bạn có thể đọc mỗi phần này thôi cũng được :D
TỔNG HỢP LUÂN HỒI – CÁI CHẾT
1. Luân Hồi có thật : Có nghĩa là chúng ta có nhiều kiếp sống. Được minh chứng bằng Việc đầu thai, việc nhớ lại kiếp trước, việc thần đồng, việc sinh ra có người thế này thế kia.
2. Mỗi linh hồn sau khi chết đi, thể Vía tan rã, rồi thể Trí tan rã. Nó chỉ tổng hợp những gì đã học được, trở thành năng lực của linh hồn. Giống như ghi chép sổ kế toán, sang năm mới thay sổ mới, chỉ ghi tổng hợp số liệu của năm cũ… sang cuộc đời mới Linh hồn cũng bắt đầu thể Trí mới,ghi chép những kinh nghiệm mới.. Nếu nhớ kiếp trước thì con người sẽ dằn vặt, hối hận… hay cả thù hận
3. Các linh hồn trong gia đình giống như các vai diễn trong 1 đoàn kịch, Vua, Cha, Con… sau khi diễn xong, tất cả đoàn kịch đều trở lại là anh em trong đoàn.
4. Mục đích của luân hồi là con người học hỏi, tích lũy để tiến hóa trở thành Phật, thành đấng giác ngộ.
5. -- Chỉ có một phương pháp là: Diệt lòng ham muốn, luôn luôn tránh điều ác, cố gắng làm việc lành, tận tâm giúp người mà không mong hưởng phước. Chuyên lo học tập, nghiên cứu, tìm hiểu luật Tiến hóa để thi hành đúng theo Cơ Trời.
..........
Bài viết :
CÓ LUÂN HỒI KHÔNG ?
Từ lâu, thuyết LUÂN HỒI đã là một đề tài tranh luận sôi nổi của các bực thức giả. Người ta chưa hoàn toàn đồng ý với nhau; chưa dứt khoát vì chưa hiểu rành rẽ, rồi thỉnh thoảng lại có người nêu ra để bàn cãi nữa. Phần đông thiên hạ đã chấp nhận, nên cho rằng: thuyết LUÂN HỒI có thật và rất đúng, nhưng cũng còn nhiều người không tin hoặc còn hoài nghi, mới cho rằng: có thể đó là những điều bịa đặt, dị đoan, phi lý. Vậy LUÂN HỒI là gì ? Có LUÂN HỒI chăng ?
LUÂN HỒI LÀ GÌ ?
Danh từ LUÂN HỒI do gốc chữ Hán: LUÂN là xoay vần, là bánh xe; HỒI là trở về. Phật Pháp cho rằng: Chúng sanh trên cõi thế gian đều mắc trong vòng sanh tử, tử sanh, sống rồi chết, chết rồi sống lại, giống như cái bánh xe xoay tròn không dứt. Tiếng Nam Phạn (Pâli) gọi là Cakkavatin (bánh xe quay), Tàu dịch là Chuyển Luân, Triết lý nhà Phật gọi là: Pati-Sandhi, nghĩa là Kết sanh. Như vậy, Luân Hồi có nghĩa là đầu thai lại nơi cõi Trần để học hỏi và để trả các nghiệp quả đã gây ra ở những kiếp trước.
Phần đông nhơn loại tin rằng con người gồm có hai phần: phần thể xác và phần linh hồn, còn cuộc đời ở Trần gian là một trường TẤN HÓA. Trong trường TẤN HÓA nầy, linh hồn phải đầu thai đi, đầu thai lại cả trăm ngàn kiếp để học hỏi; ban đầu là loài kim thạch, đến thảo mộc, cầm thú, rồi mới đầu thai làm người. Mỗi kiếp, con người phải có một thể xác để hoạt động và học tập ở cõi Trần trong một thời gian. Khi thể xác hư hoại, không dùng được nữa, linh hồn phải từ bỏ nó và về cõi Thiên Đàng nghỉ một lúc, ta gọi là chết; rồi khi đúng ngày giờ, lại trở xuống trần thế, lấy một thể xác mới để tiếp tục học hỏi, tấn hóa nữa, và mỗi lần đầu thai lại như vậy gọi là một kiếp LUÂN HỒI.
NHỮNG QUAN NIỆM VỀ LUÂN HỒI
LUÂN HỒI là Luật Trời mà muôn loài vạn vật phải tuân theo để tiến hóa. Thông thường, danh từ Luân Hồi được dùng để chỉ sự tái sanh của linh hồn ở cõi Trần với nhiều quan niệm khác nhau như sau:
1/- Đôi khi người ta cho rằng: lúc một đứa nhỏ sanh ra đời, Trời không tạo riêng cho nó một linh hồn mới, vì linh hồn nầy đã có sẵn từ lâu, dưới hình thức cá nhân, trong một trạng thái tinh thần nào đó. Khi sanh ra đời, linh hồn lấy xác thể nhơn loại lần thứ nhứt, mà cũng là lần chót. Đó là học thuyết “Linh hồn có sẵn” (Preexistence).
2/- Theo một quan niệm khác thì linh hồn con người hiện ra trước hết trong hình thể vật chất, có khi trong xác thể nhơn loại, nhưng nhiều lần khác, ở trong xác thú vật hoặc thảo mộc, cho nên sau khi chết, linh hồn nầy có thể sanh lại làm thú hoặc cây cối, trước khi trở lại sanh ra làm người một lần nữa. Đây là theo học thuyết “Chuyển kiếp” hay “Chuyển sanh” (Transmigration, Métempsycose).
Người Ai-cập cũng tin rằng: khi chết, linh hồn nhập vào một con vật khác rồi đến 3000 năm sau, mới trở lại đầu thai vào xác thể con người, để cứ xoay vần mãi như vậy.
3/- Theo một quan niệm thứ ba thì Linh hồn nhơn loại đã sống ở trần gian làm đàn ông hoặc đàn bà từ trước rồi, bây giờ mới sanh ra lại trong xác thể một đứa trẻ, chớ không phải nó ở từ thú vật hay thảo mộc chưa có cá tánh mà đầu thai làm người (nghĩa là Hồn khóm phải tiến lên đến bực một thực thể riêng biệt, vĩnh viễn và tự có ý thức, rồi mới qua loài người: entité individuelle permanente et soi-conscience). Linh hồn nhơn loại, sau khi chết thì ở trong trạng thái tinh thần một thời gian rồi mới đầu thai lại vào một xác thể trẻ thơ để lớn lên thành đàn ông hoặc đàn bà, chớ không đầu thai làm thú vật hoặc thảo mộc nữa. Đây mới là theo học thuyết Luân Hồi (Réincarnation).
Giáo lý Thông Thiên Học dạy rằng: một khi linh hồn đã được cá tánh hóa (individualisé) và trở thành nhơn loại rồi thì không thể nào đầu thai trong hình thể thú vật hoặc thảo mộc nữa. Các nhà Thông-Thiên-Học kim thời, hạn định danh từ Luân-Hồi theo ý nghĩa thứ ba nầy, vì nếu con người đầu thai làm thú hay thảo mộc thì không học hỏi thêm được cái gì cả, có thể nói là thoái hóa chớ không phải tiến hóa, mà điều cốt yếu của Luân Hồi là giúp con người tiến lần lần, từ người dốt nát dã man lên hạng thường nhơn, rồi có học thức, đến hiểu thông đạo đức, sau mới đắc quả thành Tiên, Phật, ấy là bực toàn giác.
Khi con người tiến đến bực La Hán sắp lên thì không còn bị bắt buộc phải Luân Hồi lại cõi Trần nữa, vì đã trả dứt nghiệp quả và đã hiểu thông tất cả việc ở trần gian rồi, chỉ trừ khi nào Người muốn trở lại trần gian để giúp đỡ nhơn loại thì không kể.
DO ĐÂU MÀ TIN CÓ LUÂN HỒI ?
Hầu hết người thường cũng như tín đồ các Tôn giáo đều tin là có Luân Hồi, căn cứ theo :
1/- Kinh sách nói về sự Luân Hồi,
2/- Tình trạng con người ở cõi Trần,
3/- Các vị Thần-đồng,
4/- Những người nhớ chuyện kiếp trước.
1- KINH SÁCH NÓI VỀ SỰ LUÂN HỒI.
Trong Kinh Phúc-Âm (Evangile du Bouddha par Carus) trang 127 có chép đoạn : Phật dạy các Tỳ-kheo như vầy: “Linh hồn đi đầu thai từ kiếp nầy đến kiếp khác, xuyên qua tất cả các hình dạng, từ đá cát đến cây cỏ, cầm thú và loài người, với những tánh tình riêng biệt, cho đến khi nó lên đến bậc toàn giác là Phật”.
Trong Túc-sanh-truyện cũng có thuật lại 550 kiếp của Đức Bồ Tát, trước khi Ngài thành Phật. Mỗi khi gặp dịp, Ngài thường đem những việc kiếp trước của Ngài, nói ra để dạy cho các đệ tử một bài học luân lý hoặc từ bi, bác ái, hoặc hỉ xả, hy sanh, lấy ân đáp oán, v.v. . .
Phái Thiên Chúa Giáo tin rằng: Khi đứa nhỏ ra khỏi lòng mẹ thì Đức Chúa Trời sanh cho nó một cái linh hồn. Tùy theo sự hành động của nó ở cõi trần, mà sau khi chết, linh hồn của đứa trẻ nầy sẽ được về Thiên Đàng hưởng phước đời đời, hoặc phải sa Địa ngục chịu hình phạt mãi mãi, chớ không tin có Luân hồi nhiều lần. Có lẽ tại vì Chúa Jésus không có giảng giải tỉ mỉ và không nói rõ danh từ Luân Hồi. Nhưng những đoạn sau đây chứng minh Chúa chấp nhận sự Luân Hồi.
Trong Thánh Kinh Tân Ước có chép :
a/- Jésus thấy một người mù từ trong bụng mẹ đi ngang qua, các Môn đồ mới hỏi Ngài: Thưa Thầy, ai làm tội lỗi, người đó hay cha mẹ va, cho nên khi va sanh ra đã mang tật mù ?
(Saint Jean IX-I)
Nếu nói cha mẹ va làm tội ác, để va mang tật mù thì không công bình, vì tội ai làm nấy chịu. Nếu nói tội của va,thì va làm tội lỗi hồi nào ? - Ở trong bụng mẹ thì làm tội sao được ? Vậy phải nói: va đã làm tội hồi những kiếp trước nhiều rồi, nên kiếp nầy phải đền tội cũ, không hưởng được thú vị trong đời sống nữa.
b/- Chúa Jésus dạy rằng:”Hãy được TRỌN LÀNH như cha các ngươi ở trên Trời TRỌN LÀNH vậy “
(St. Mathieu V- 48)
Nếu Chúa dạy phải ăn ở hiền lành thì ta có thể làm được, nhưng dạy phải TRỌN LÀNH, mà chỉ tập trong một kiếp thì chẳng có một người nào làm nổi.
Vậy câu đó có ẩn ý là phải có Luân Hồi, ta phải trở lại trần gian rất nhiều kiếp để học tập thì mới đến bực TRỌN LÀNH được.
c/- Bởi vì các nhà Tiên-tri và Luật pháp có đoán trước tới Jean và nếu các ngươi muốn hiểu Jean thì JEAN là ELIE, đấng Tiên-tri phải đến đó”
(Saint Mathieu XI, 13- 14)
d/- “Jésus tới địa phận Césarée de Philippe mới hỏi môn đồ rằng: Họ nói Thầy là ai ? Thầy đây là con của Người. Các môn đồ trả lời: Mấy người nầy thì nói Thầy là Jean Baptiste, mấy người kia thì nói Thầy là ELIE, còn mấy người khác thì nói Thầy là JÉRÉMIE hay là MỘT ĐẤNG TIÊN TRI nào đó”
(St. Mathieu XVI, 13 14)
e/- Các Môn đồ hỏi Ngài:” Tại sao mấy Thầy Thông Giáo nói Elie phải tới trước ? Ngài trả lời: “QUẢ THẬT ELIE PHẢI TỚI TRƯỚC ĐẶNG SẮP ĐẶT LẠI MỌI VIỆC. Mà Thầy nói với các con, ELIE ĐÃ TỚI RỒI NHƯNG HỌ KHÔNG NHẬN BIẾT VÀ HỌ ĐỐI ĐẢI VỚI ELIE THEO Ý MUỐN CỦA HỌ. Nữa đây, cũng vậy, con của Người sẽ chịu đau khổ vì họ. Các Môn đồ hiểu rằng Ngài muốn nói về Jean Baptiste.
(St. Mathieu XVII, 10- 13)
-- Chúa Jésus dạy là con người phải sanh lại (Renaitre), chớ không phải hồn sẽ nhập vào cái xác cũ để SỐNG LẠI (Revivre, Se ressussiter). Xác thịt của cha mẹ sanh ra nên nó là vật chất, sẽ tan rã, còn Linh Hồn là Tinh Thần nên còn mãi mãi và sẽ về cõi Trời.
Trong Kinh Thánh Đạo Hồi cũng có đề cập đến thuyết Luân Hồi. Đọc những câu sau đây, ta sẽ thấy rõ:
a/- “ Đức Thượng Đế sanh ra muôn loài và cho đầu thai đi, đầu thai lại, tới chừng nào cả thảy đều trở về với Ngài.”
(Coran XXX, 10)
b/- Linh hồn trước hết ở trong loài Kim Thạch, rồi mới qua loài Thảo mộc. Linh hồn ở trong loài Thảo mộc không biết mấy thế kỷ, mảng lo tranh đấu mà quên hồi mình còn ở trong loài Kim thạch.
Khi linh hồn qua ở loài Thú Cầm thì không còn nhớ tới hồi ở loài Thảo mộc nữa. Rồi đấng Tạo Hóa mới cho linh hồn đầu thai qua loài Người. Linh hồn bắt đầu từ loài nầy đi đến loài kia, cho đến chừng nào trở nên một đấng khôn ngoan”
(Le Mesnavi)
Ngoài những lời dạy của các vị Giáo chủ các Tôn giáo, chúng ta còn có thể căn cứ vào tình trạng con người, khi mới sanh lại ở cõi Trần, và những hiện tượng đặc biệt, thường xảy ra ở thế gian, như: trường hợp các vị thần đồng và những người chết rồi đầu thai lại sớm, còn nhớ chuyện kiếp trước, mà tin rằng có sự luân hồi.
2- TÌNH TRẠNG CON NGƯỜI Ở CÕI TRẦN
Ai cũng phải nhìn nhận rằng: con người sanh ra nơi cõi Trần đều ở trong tình trạng khác nhau: người thì mạnh khoẻ, kẻ thì ốm đau, người lành lặn, kẻ lại tật nguyền, người thì gặp cảnh sang giàu, vui sướng, người lại ở nhằm gia đình nghèo khó gian lao; người thì thông minh, sáng suốt, người lại dốt nát, ngu khờ. Có người học ít mà tài cao, trí rộng, việc nào làm cũng được. Có kẻ siêng năng, cặm cụi làm ăn mà nghèo mãi, còn người biếng nhác mà lại gặp thời may, giàu có thảnh thơi. Nhiều người hiền lành, tử tế, lại gặp nạn tai, còn người hung ác lại hưởng nhiều hạnh phúc. Nếu không chấp nhận có Luật Luân Hồi, Nhân quả gây ra thì tình trạng nầy, ta mới giải thích làm sao đây ? – Ví như con người chỉ sanh ra trong một kiếp, để rồi khi thác, người lành lên Thiên Đàng, người ác sa Địa ngục, thế là hết, thì tại sao Thượng Đế hay Đức Chúa Trời là đấng Toàn Năng, không sanh con người đồng một tánh tình như nhau, đều hiền lành, đều mạnh khỏe hết, hay thông minh hết, v.v. . . như vậy có phải là công bình hơn không ? Tại sao lại đày đọa sanh linh trong cảnh khổ đau thảm khốc ?
Điều nầy chúng ta cũng không thể dựa vào sự di truyền nòi giống mà giải thích được, vì biết bao trường hợp: cha mẹ cú đẻ con Tiên, cha mẹ hiền sanh con dữ; hoặc cha mẹ ươn yếu, sanh con bụ bẫm, cha mẹ mạnh khỏe, sanh con tật nguyền. Sách Nho có câu: Sanh tử bất sanh tâm, sanh ngưu vô sanh giác; (Sanh con há dễ sanh lòng, trâu mẹ sanh trâu con, đâu có sanh sừng).
3- CÁC VỊ THẦN ĐỒNG
Chúng ta cũng nghe nói đến các vị Thần đồng, tức là những đứa trẻ còn nhỏ tuổi, chưa đầy đủ trí khôn, chưa vào trường học hỏi, thế mà chúng đã biểu lộ được thiên tài, xuất chúng trong mọi địa hạt: văn chương, thi phú, khoa học, tôn giáo, v.v. . . làm cho các bậc thức giả, các nhà bác học phải khâm phục.
-- Năm 1911, một cậu bé tên Ferreros mới có 4 tuổi rưỡi mà đã điều khiển ban Âm nhạc ở Folie Bergères, một cách vững vàng và khéo léo.
-- Van de Kefkhore de Bruges chết ngày 12/8/1873 lúc cậu mới 10 tuổi 11 tháng, cậu để lại 350 bức tranh mà theo lời ông Adolphe Siret có chân trong Hàn Lâm Viện khoa học, văn chương và mỹ thuật ở nước Bỉ cho biết: có những bức tranh khéo đến đỗi có thể ký tên các họa sĩ trứ danh như Diaz, Corot, Salvator Rosa, v.v. . . vào đó, cũng không ai nghi ngờ là giả mạo.
Gauss de Brunswich là một nhà thiên văn và toán học kỳ tài, đã giải quyết những bài toán đố hồi mới có ba tuổi.
William Sidis xứ Etat de Massachussets, mới 2 tuổi đã biết đọc, biết viết; 4 tuổi biết nói 4 thứ tiếng, 12 tuổi được vào học trường Massachussets Institute of Technologie là nơi mà những người khác phải đúng 21 tuổi mới được nhập học. Tại Đại Học Đường Harward, Ngài diễn thuyết về vấn đề “Bề đo thứ tư của không gian” (Tứ nguyên không gian, 4è dimension) cho các vị Giáo sư khoa Cao đẳng toán học nghe, làm cho các vị nầy phải kinh dị vô cùng.
Henri de Hanneke, sanh tại Lubeck năm 1721, mới sanh ra đã biết nói. Tới 2 tuổi biết được 3 thứ tiếng. Cậu học viết trong vài ngày và tập làm những bài diễn văn ngắn. Khi 2 tuổi rưỡi, cậu chịu khảo hạch về địa dư và sử ký cận đại. Cậu chết ngày 17-6-1725, vì bị dứt sữa.
Tun-Tuyn ở làng Trawaddy Delta (Rangoon) Miến Điện, hồi mới 5 tuổi đã giảng đạo hay hơn các vị Hòa thượng. Nhiều ông Sư đem những chỗ khó trong triết lý đạo Phật vấn nạn cậu, cậu giải đáp một cách rành rẽ. Cậu đọc nhiều đoạn kinh mắc mỏ bằng tiếng Pâli, rồi dịch thuộc lòng bằng tiếng Burmesse. Ngày 28-5-1924 cậu ngồi xe hơi đi từ Parmyde đến Prome, dọc đường bá tánh đua nhau đón xe rất đông đảo, đặng nghe thuyết pháp. Tới Prome, mặc dầu trời nắng gắt, cậu leo lên cao rồi đứng giữa trời dạy Đạo, từ 12 giờ rưỡi cho tới 2 giờ rưỡi, mà không biết mệt mỏi chi cả.
THẦN ĐỒNG ĐẠI HÀN
Kim Ung Yong ở Hán Thành, sanh ngày 7-3-1963, con trai của ông Giáo sư Vật Lý học Kim Soo Sun, 33 tuổi, dạy học tại Đại Học Đường Hangyang và bà Yoo Myung Hyun, 33 tuổi, giáo sư môn vệ sinh tại Quốc gia Đại Học Đường Hán Thành. Hồi tháng 9-1966, em đã sang Hoa kỳ du học, dưới sự giáo huấn của Giáo sư Vật Lý Học Allen D. Schneid tại Đại Học đường Michigan, được hưởng học bổng hằng năm 3500 Mỹ kim. Em mới 3 tuổi, cao một thước, cân nặng 14 kí rưỡi, mà nói thạo Anh ngữ, Đức ngữ cũng như tiếng Triều Tiên là tiếng mẹ đẻ. Em có thể làm được những bài toán phức tạp với những vi phân toán và tích phân toán một cách dễ dàng. Em cũng là một tay viết Hán tự tài ba và làm thơ rất chỉnh. Khi sanh ra được ba tháng, em mọc cùng một lúc 19 cái răng, và nói bập bẹ được vài tiếng. Sáu tháng em biết đi, nghe và thuộc lòng tên các loài thảo mộc và súc vật trong những cuốn sách giáo khoa bậc tiểu học.
Hồi được 13 tháng, em đã học thuộc được mấy trăm chữ ngữ vựng Anh. Một tháng sau, em nói được cả tiếng Đức. Đến 18 tháng, em Kim đã biết cách sử dụng bút lông, mực tàu viết Hán tự, ít lâu sau, bắt đầu vẽ bằng viết chì. Em bắt đầu viết nhật ký, khi em được 20 tháng, và từ đó đã viết được hằng ngàn trang giấy, vừa viết, vừa vẽ, vừa làm thơ. Một số tạp văn và minh họa của em đã được xuất bản tại Hán Thành hồi đầu năm 1966.
Hiện nay, em Kim sinh sống tương đối không khác gì một trẻ em bình thường, ngoại trừ trí thông minh phi thường.
Theo bài của James Kim. Liên Hiệp Thông Tấn Xã Quốc Tế. (Thế giới Tự Do).
Thử hỏi, nếu không có luật Luân Hồi, và nếu các vị nầy không sanh trở lại trần gian nhiều kiếp để học hỏi, luyện tập thì bây giờ làm sao hiểu biết thông minh dường ấy ?
Nhờ đã luân hồi nhiều kiếp, rèn luyện chuyên môn và tấn hóa cao, nên kiếp nầy Xác, Vía, Trí, đều tinh vi tốt đẹp họ mới nhớ và biểu lộ được quá sớm, những biệt tài của họ đã thụ đắc trong những kiếp trước.
Những điều chúng ta đã học hỏi, kinh nghiệm đúng đắn, cũng như những đức tánh tốt đã luyện tập được trong kiếp trước rồi thì không bao giờ bị mất, dầu có luân hồi nhiều kiếp cũng vậy. (Xin xem bộ sách: Con người là ai ? Xuống cõi Trần làm chi ? của BẠCH LIÊN)
4/- NHỮNG NGƯỜI NHỚ CHUYỆN KIẾP TRƯỚC
Ngoài hạng Thần đồng ra, chúng ta còn căn cứ vào những người nhớ chuyện kiếp trước.
Theo khoa học Bí truyền thì người thường, khi chết, linh hồn phải qua ở cõi Trung Giới một thời gian, lâu bằng số tuổi ở cõi Trần, rồi mới lên cõi Thượng Giới hay Thiên Đàng. Tại đây linh hồn được sống thung dung, sung sướng một thời gian ngắn, rồi mới đến kỳ đầu thai kiếp khác. Người sống hiền lành, biết đạo đức, lo làm phải lại càng ở lâu hơn, có thể đến vài ngàn năm. Nhưng cũng có những người đi đầu thai lại sớm, trong vòng 5, 10 năm. Những người nầy gồm có hai hạng:
a/- Hạng tấn hóa khá cao, những vị Đại Đức chơn tu, Đệ tử Tiên, cần trở lại cõi Trần để tiếp tục giúp đời, học thêm kinh nghiệm và trả cho dứt các nghiệp quả tiền kiếp. Khi bỏ xác, họ nhờ các bậc Chơn Sư giúp họ đầu thai sớm để phụng sự nhơn loại.
b/- Hạng thứ hai là những người chết một cách tức tối, hoặc còn việc chi chưa thanh toán xong ở cõi Trần, họ quá muốn trở lại để giải quyết. Nhờ ý chí mạnh mẽ, họ đầu thai được sớm hơn thường lệ.
Hai hạng người nầy có thể nhớ lại những việc kiếp trước. Tuy nhiên, các vị đệ tử Tiên, Thánh, vẫn tiếp tục giữ tình trạng ấy luôn và tiến bộ thêm, còn hạng thường nhơn, có thể trong vòng 5 bảy năm, khi tuổi càng lớn thì những ký ức đó cũng lui dần vào dĩ vãng, rồi quên hết, và trở lại người bình thường.
Dưới đây là những bằng chứng để xác nhận điều đó.
ĐẦU THAI LÀM CON HAI LẦN
Câu chuyện nầy đăng trong các báo: Banner of Light tại Boston, ngày 15-10- 1892; báo Globe Démocrat ở Saint Louis, ngày 20-9-1892; và báo Le Brooklyn Lagle, báo Le milwankee Sentinel, ngày 25-9-1892, do đương sự là ông Issaac G. Forster, một người có danh giá thuật lại:
Mười hai năm trước, Issaac G. Forster ở tại địa phận Effingham (Illinois), nơi đây ông bỏ một đứa con gái tên là Mari. Năm sau, ông qua ngụ tại Dakota. Ở đây, vợ ông sanh được một đứa con gái khác, đặt tên là Nellie. Năm 1892, Nellie đã lên 9 tuổi. Từ ngày Nellie biết nói, nó không bao giờ chịu nó tên là Nellie, mà nó xưng là Mari. Một hôm có việc, Issaac G. Forster trở về Effingham, ông dắt Nellie theo. Đây là lần đầu tiên Nellie được đến Effingham, nhưng vừa tới nơi là nó đã biết liền ngôi nhà cũ của nó và những người mà Mari quen từ trước. Trước kia, Mari có học ở một ngôi trường cách nhà nó độ một ngàn rưởi thước, con Nellie chưa tới đó lần nào, nhưng nó tả trúng hết và nó xin dắt nó đến thăm trường của nó. Đến nơi nó chạy lại nơi con Mari ngồi trước kia và nói rằng chỗ đó là chỗ của nó.
CHUYỆN CÔ SHANTI THÁC Ở MUT-TRA, ĐẦU THAI LẠI Ở DELHI.
Tiếp theo đây là câu chuyện đã được ba ông: Lala Deshbandhu Gupta, chủ nhiệm báo The Daily Taj, nhà lãnh tụ ái quốc Pandit Neki Pram Sharma và Trạng sư Chand Mathur điều tra kỹ lưỡng và gởi cho báo chí.
Chuyện nầy đã làm chấn động dư luận thế giới, vì nó có quan hệ đến triết lý của cuộc đời:
“SHANTI, một cô gái sanh ra ở Delhi (Ấn Độ). Từ mới sanh tới bốn tuổi, Shanti như một người câm. Qua 4 tuổi nó mới nói được, và nói nhiều việc dường như là kết quả của sự nhớ lại những chuyện kiếp trước, do sự liên tưởng mà ra. Như khi nó ăn bánh thì nó nhắc lại những thứ bánh nó ăn tại nhà nó ở Muttra hồi kiếp trước; khi mặc quần áo cũng vậy, nó tả lại cách ăn mặc của nó hồi ở Muttra.
Nó thường nói tới việc chồng con, nhà của nó ở kiếp trước, chồng nó là một người buôn bán vải. Nhà nó sơn màu vàng và gần bên có nhiều tiệm đặc biệt.
Lúc đầu, cha mẹ Shanti cho là nó nói nhảm như những trẻ con khác, nên không để ý. Nhưng sau, nó lập đi, lập lại mãi, cha mẹ nó mới sợ và không muốn nói ra cho ai biết, vì theo tục lệ Ấn Độ, họ cho rằng đứa trẻ nào thật nhớ chuyện kiếp trước thì không sống lâu được. Nhưng cô bé Shanti thường tỏ ý muốn đi Muttra và những người lân cận đều biết rõ.
Cũng theo tục lệ bên Thiên Trước, người đàn bà khiêm tốn không hề nói tên chồng của mình, nên khi cha mẹ Shanti hỏi tên chồng nó, thì nó không nói mà chỉ trả lời một cách rụt rè: Khi nó gặp thì nó biết.
Một ngày kia, ông cậu của nó là ông Bishan Chand, giáo sư trường Ramjas school, Darya Ganj, (Delhi) tới thăm; ông hứa với nó, nếu nó nói tên chồng trước của nó, thì ông sẽ dắt nó đi Muttra. Shanti mới nó nhỏ với ông: chồng nó tên Pandit Kedar Nath Chaubey. Ông nói với nó là để ông điều tra trước rồi sẽ dắt nó đi, nhưng rồi ông đồng ý với cha mẹ nó là bỏ qua câu chuyện không nhắc tới nữa.
Trong một ngày lễ, ông Giáo sư, cậu nó, thuật chuyện nầy cho ông Lala Kishau Chand M. A. hiệu Trưởng hồi hưu, ở số 7, đường Darya Ganj tại Delhi nghe chơi. Ông nầy muốn biết Shanti. Trong cuộc gặp gỡ ông Hiệu Trưởng, Shanti cho ông biết địa chỉ của Kedar Nath, chồng nó, và tả hình trạng cái nhà cũ của nó.
Ông Lala Kishau Chand, theo địa chỉ cô bé nói, viết một cái thơ cho Pandit Kedar Nath, kết quả làm cho ông và mọi người hết sức ngạc nhiên, vì Kedar Nath trả lời là: những điều cô bé nói đều đúng sự thật. Trong thơ Kedar Nath còn ngỏ ý xin cho một người bà con tên Pandit Kanji Mal làm trong sở ông Bhana Mal Gulzari tại Delhi đến giáp mặt cô bé. Gia đình cô Shanti chịu, và khi giáp mặt, chẳng những cô bé nhận được Kanji Mal là bà con còn nhỏ tuổi của chồng kiếp trước, mà cô còn trả lời rất đúng những việc kín nhiệm trong gia đình. Sự lạ lùng càng tăng nên Kanji Mal mới kêu anh là Kedar Nath Chaubey từ Muttra qua Delhi.
Khi Kedar Nath cùng con đến, Shanti nhận ra chồng con liền và khóc nức nở cả giờ. Kedar Nath hỏi cô bé nhiều việc thầm kín trong gia đình để thử ký ức của cô. Shanti trả lời đúng cả, làm Kedar động lòng sa nước mắt và quả quyết là linh hồn vợ y thác ở Muttra đã đầu thai lại.”
( Chuyện nầy tóm tắt một đoạn trong bản dịch tờ phúc trình của hội Liên Minh Quốc Tế da trắng ở Delhi).
Ngoài ra còn biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra như hai trường hợp trên; ngay ở Việt Nam cũng có một vụ mới xảy ra ở Phú Lâm Tân Châu, hồi năm 1965, một đứa trẻ thuật lại việc kiếp trước, nó bị ám sát hồi 10 năm qua, nhưng vì không ai theo dõi, điều tra và vì gia đình cố ý giấu, nên ít người được biết.
MỘT VỊ THƯỢNG TỌA TÁI SANH
Bài nầy trích trong quyển “Mấy Thầy Tu Huyền Bí ở Tây Tạng và Mông Cổ” của Đoàn Trung Còn.
“ Ở Tây Tạng, trong những chùa lớn, mấy vị Thượng Tọa có cái thuật thác rồi thì sanh trở lại để cầm quyền ngôi chùa của mình như trước. Có một ít vị Thượng Tọa mà người ta gọi là Phật Sống (Hoạt Phật, Bouddha vivant). Nhiều vị tu hành đắc đạo song cũng còn tái sanh để hộ trì ngôi Tam Bảo, hoặc để làm cho xong chức vị của mình. Sau khi mấy vị Lạt Ma ấy bỏ cái xác thân cũ thì người ta lo đi tìm cái thân mới, để thỉnh đem về chùa. Có khi các Ngài đầu thai vào những gia đình ở
cách chùa rất xa, chẳng tiện cho người ta tìm kiếm, rồi ngẫu nhiên một hôm, thầy trò gặp nhau, ôn nhắc những việc hàn huyên và trở về chùa cũ. Dưới đây là câu chuyện do bà Alexandra David Néel (một người Pháp) đã thấy tận mắt.
“Năm ấy, tôi ở tại Koum-Boum, trong đền của đức Lạt Ma tái sanh, tên là Pegyal. Gần đó có đền của đức Lạt Ma tái sanh khác tên là Agnai Tsang. Vị nầy tịch đã bảy năm rồi, song người ta chưa tìm ra được nơi tái sanh của Ngài. Trong lúc ấy, viên trị sự của chùa coi bộ không lấy làm buồn. Ông lo cai quản luôn điền sản của vị Thượng Tọa và của mình, đôi bên đều được thuận tiện. Nhứt là cơ nghiệp riêng của ông thì càng ngày càng mở mang, phát đạt.
Một hôm, nhân việc giao dịch, ông phải đi về miệt nhà quê, nên ghé lại một nhà làm rẫy để giải khát và nghỉ chân. Trong khi bà chủ nhà nấu trà để đãi ông, ông rút trong đãy ra một bộ đồ hút bằng ngọc thạch. Vừa kê miệng vào hút thì một đứa trẻ đang chơi trong xó bếp bổng chạy đến ngăn ông lại. Cậu vừa để tay lên bộ đồ hút, vừa hỏi ông với giọng quở trách:
-- “Sao lại dùng bộ đồ hút của ta ?”
Viên trị sự dường như bị sét đánh. Thật ra, bộ đồ hút quí báu ấy chẳng phải của ông. Ấy là của vị Lạt Ma Agnai-Tsang đã qua đời. Không phải ông muốn đoạt, song sẵn đó thì ông cứ lấy mà dùng hằng ngày. Lúc ấy ông lính quính, run rẩy, còn đứa trẻ thì ngó ông, gương mặt bổng khác đi, trở nên nghiêm nghị, hờn giận và chẳng còn có vẻ chi là trẻ con nữa. Cậu truyền lịnh rằng:”Trả bộ đồ hút lại, nó là của ta.”
Viên trị sự lấy làm hối quá, sợ sệt, hổ ngươi, bèn quì mọp và lạy dài dưới chơn ông thầy tái sinh của mình.
Ít hôm sau, tôi thấy người ta làm lễ rình rang để thỉnh vị Thượng Tọa về chùa. Ngài mặc một cái áo gấm màu vàng, cỡi một con ngựa ô rất đẹp, còn viên trị sự thì phò tá, nắm lấy dây cương. Khi cả đoàn vào tới đền, vị sư trẻ mới hỏi rằng:
“Sao lại rẽ qua tay trái đặng vào cái sân thứ nhì ? Ta nhớ cái cửa ở phía tay mặt mà.”
Thật thế, sau khi Thượng Tọa qua đời, vì một lý do gì đó, người ta đã bít cái cửa bên mặt và mở một cái cửa khác bên trái để ra vào.
Mấy sư trong chùa nầy lấy làm tin tưởng rằng cậu bé ấy đúng hẳn là chủ cũ của mình. Người ta thỉnh Sư Thượng Tọa vào thất riêng của Ngài và đem trà dâng lên.
Vị Sư trẻ tuổi ngồi trên chồng gối, ngó một cái tô bằng ngọc thạch với dĩa bằng bạc mạ vàng, có nắp bằng ngọc bích, để trên một cái bàn trước mặt Ngài.
Sư dạy rằng:”Hãy đem cái tô sứ cho ta.”
Ngài bèn tả cái tô sứ Tàu và nói rõ hình vẽ trên tô. Nhưng không ai thấy cái tô ấy bao giờ. Viên trị sự và chư tăng đều cung kính bạch rằng: chẳng có cái tô ấy trong chùa.
Vị sư dạy thêm:”Các ngươi cứ kiếm kỹ đi rồi sẽ thấy.”
-- Thình lình, dường như có một ánh sáng của trí nhớ xẹt vào trong óc, Ngài bảo kiếm trong một cái tủ sơn để trong một căn phòng, nơi ấy, người ta để những đồ ít hay dùng. Chư tăng đi lục lạo đến gần nữa giờ mới đem ra cái tô quí với dĩa và nắp, đều để dưới đáy tủ mà Ngài Thượng Tọa đã chỉ.
Viên trị sự bèn thưa rằng:
“Tôi không dè cái tô để đó. Chính tự tay Ngài cất, chúng tôi đâu có biết, vì trong phòng ấy chỉ để những đồ tầm thường mà thôi.”
Những câu chuyện trên đây là những bằng chứng hùng hồn để chứng minh cho ta thấy rằng: SỰ LUÂN HỒI CÓ THẬT. Cũng vì có sự Luân hồi để trả nghiệp quả tiền kiếp, nên mới có người nghèo khổ, người giàu có sang trọng, người đẹp đẽ, kẻ xấu xí, người thông minh, kẻ dốt nát, người lành lặn, kẻ đui, cùi v.v. . . tùy theo cái nhân mà họ đã gieo ở những kiếp trước, bây giờ họ phải gặt những quả tương xứng.
No comments:
Post a Comment