Wednesday, August 31, 2011

Thấy khổ bớt khổ


Sống ở đời, chúng ta ai cũng có những nỗi khổ niềm đau, dù ít hay nhiều. Bởi thân thể ta đau nhức là khổ, giận hờn là khổ, tiếc thương cũng khổ… Có rất nhiều yếu tố làm cho ta khổ, nhưng chung quy mọi khổ đau đều xuất phát từ chính mình.
Khổ là một sự thật hiển nhiên. Không ai có thể phủ nhận lẽ thật ấy. Bất cứ ở nơi nào trên thế giới này, cho dù ở đó ta có nhiều tiền bạc, bằng cấp, địa vị hay uy quyền thì vẫn bị phiền não, khổ đau chi phối. Bởi khi ta chưa nhận diện và chuyển hóa được những hạt giống giận hờn, tham lam, buồn tủi, lo lắng, sợ hãi, ghen tị, trách móc… ở trong mảnh đất tâm của mình, thì sẽ bị sợi dây phiền não trói buộc và sai sử.
Tuy nhiên, hạnh phúc hay sự vắng mặt khổ đau cũng là một sự thật. Nếu như ta thấy rõ ràng những diễn biến xảy ra ở thân tâm mình cùng hoàn cảnh hiện tại trong trạng thái sáng suốt, khách quan và trung thực, thì khổ đau sẽ không có cơ hội để biểu hiện.
Thực ra, khổ chỉ xuất phát khi tâm ta vướng mắc vào đối tượng, hay là có ý niệm muốn loại trừ đối tượng đó. Còn ngược lại, khi ta tiếp xúc với mọi hoàn cảnh, nhưng chỉ ghi nhận đơn thuần thôi, mà không khởi tâm muốn chiếm hữu hay là loại trừ, thì khổ đau sẽ không có cơ sở để sinh khởi.
Căn bệnh lớn nhất của chúng ta là muốn chiếm hữu những gì mà mình cho là tốt đẹp, và chạy trốn hoặc chống đối lại những gì mà mình không thích. Đây là nguyên nhân tạo ra phiền não, khổ đau. Bởi ta cố mong cầu để được một cái gì đó, thì rơi vào tâm tham. Khi mình ao ước và mong muốn được cái đó, nhưng giấc mơ ấy không thành tựu, thì khổ đau sẽ có mặt. Còn khi ta cố gắng để loại trừ những gì đang có mặt trong hiện tại, mà mình cảm thấy khó chịu, thì đó chính là tâm sân.
Và nếu, ta muốn loại trừ chúng nhưng không được, thì cũng khổ (oán tắng hội khổ). Như vậy, trong cuộc sống hàng ngày, khi nào ta rơi vào hai trạng huống này thì sẽ bị trở ngại và bất an.
Thế nên, sở dĩ ta bị khổ đau giam hãm, trói buộc là do không thấy rõ được sự sinh khởi của nó. Thực ra, khi trong tâm mình khởi lên một ý niệm buồn chán, thì ta chỉ cần thấy rõ và gọi đúng tên nó thôi là đủ.
Chào bạn Buồn, dạo này bạn có khỏe không? Mời bạn ngồi xuống uống trà với tôi. Hoặc khi trong tâm khởi lên ý niệm giận hờn ai đó, thì mình cũng thấy rõ và gọi đúng tên nó. Chào bạn Giận, bạn tới tìm tôi đó hả? Nếu mình tiếp đón lịch sự với khổ rồi, thì không có gì phải lo ngại cả.
Khi ta sống hòa bình, thân thiết và đối xử tốt đẹp với khổ, thì có gì xa lạ nữa đâu mà sợ hãi hay chạy trốn. Giống như trong thời chiến tranh, người lính đêm ngày leo đồi, lội suối, băng rừng gian nan vất vả. Ăn cơm nguội, uống nước sông, ngủ giữa rừng cây, chịu mưa gió lạnh buốt và họ không biết là mình sẽ chết lúc nào vì đạn bom loạn lạc.
Sau khi hết chiến tranh, người lính ấy được trở về sống yên bình với làng quê, thì cho dù đời sống kinh tế của họ gặp khó khăn bao nhiêu chăng nữa, cũng không ăn nhằm gì so với lúc còn ở ngoài chiến trường, bởi người ấy đã từng sống chung với khổ và học được rất nhiều kinh nghiệm từ đau khổ. Do vậy, nhiều khi khổ không hẳn là thứ xấu xa cần phải loại trừ, mà nó là bậc thầy chỉ dạy cho mình thấy ra được giá trị của hạnh phúc. Cũng giống như bông hoa sen kia, sở dĩ nó được thơm ngát tươi đẹp như thế, là nhờ từ trong bùn lầy tanh hôi mà có.
Chúng ta thấy rằng, tất cả những vui buồn, thương nhớ, giận hờn, thông minh, đạo đức…là của mọi người, không dành riêng hay ưu tiên cho bất cứ một ai. Thế thì, tại sao khi người ta giận, mình lại không đồng ý? Mình muốn người kia chỉ đối xử tốt đẹp, dễ thương với mình thôi, thì đâu có được. Bởi nhiều khi mình cũng sử dụng giận hờn, khó chịu để tiếp xử với họ cơ mà! Thực ra, trong tâm mỗi con người có đầy đủ, những ý niệm tiêu cực và tích cực. Nhưng, với người có tâm hồn bình thản và sáng suốt thì biết vận dụng được cái hay, cái đẹp để tiếp xử với nhau. Còn, người sống trong mê mờ quên lãng, thì tùy thuộc vào hoàn cảnh mà có vui hay buồn.
Cho nên, khi nào tâm ta bình thản và thấy rõ được khuôn mặt của khổ, thì lúc đó ta bớt hoặc hết khổ. Còn ngược lại, ta sống trong ảo tưởng, mê mờ, thì khi ấy khổ đau sẽ trói buộc. Do vậy, ta phải thường trực nhận diện những gì đang xảy ra trong thân tâm mình và hoàn cảnh hiện tại một cách rõ ràng, khách quan và trung thực với chính nó. Ta đừng khởi tâm áp đặt và bóp méo hiện thực ấy theo quan điểm của mình, mà chỉ lặng lẽ quan sát sự sinh diệt, thay đổi của các pháp thôi, thì sự bình yên và hạnh phúc chân thực sẽ được biểu hiện.
Viên Ngộ
Nguồn: tuanvietnam.vn

Tuesday, August 30, 2011

Giữ chánh niệm lúc đi đường


Có thể định nghĩa tắc đường hay kẹt xe là tình trạng xe cộ không thể lưu thông được vì hệ thống giao thông bị quá tải hoặc những nguyên nhân bất khả kháng khác. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia cho rằng tắc đường là căn bệnh trầm kha của các đô thị hiện đại.

Đây cũng là hiện tượng phổ biến trên các thành phố lớn ở ViệtNam, đặc biệt là ở thủ đô Hà Nội và TP.HCM. Theo một số tính toán của các nhà nghiên cứu, với dân số hàng chục triệu, hai thành phố lớn này hàng năm thiệt hại khoảng 2,4 tỷ USD vì vấn đề tắc đường. Nhưng đó chỉ là thiệt hại về mặt kinh tế mà người ta có thể lượng hóa được, còn những tác động tiêu cực về mặt tinh thần do tắc đường gây ra thì khó ai có thể tính toán hết.

Sáng sớm đi làm, nếu bị kẹt xe trong vài chục phút, chắc chắn người ta khó mà đến sở làm với tâm trạng thoải mái và sáng suốt được. Sau một ngày làm việc căng thẳng và mệt mỏi, lúc về lại phải chịu cảnh tắc đường thì thật không có gì khó chịu bằng. Chính vì vậy, nhiều người khi nhắc đến chuyện kẹt xe đều lắc đầu lè lưỡi hoặc thở dài chán ngán. Tuy nhiên, rõ ràng tình trạng này không thể ngày một ngày hai chấm dứt; và khi đã lỡ có mặt trên một đoạn đường bị kẹt xe thì ta cũng chẳng có cách nào thoát ra được mà đành chịu trận. Trong hoàn cảnh đó, chúng ta làm thế nào?

Là một người tìm hiểu và thực hành Phật giáo, tiến sỹ tâm lý Jonathan S. Kaplan đã nêu ra một vài ý tưởng liên quan tới việc thực tập sống trong chánh niệm trên đường phố với thiện ý giúp mọi người có thể có thái độ vui vẻ và thanh thản trong lúc có mặt trên đường phố, dù có bị kẹt xe hay không.
1. Hãy buông bỏ mọi cố gắng nhanh chóng đi tới bất cứ một nơi nào. Có hai yếu tố tâm lý rất căng thẳng lập tức xuất hiện khi một người có mặt trên một đoạn đường bị kẹt xe: thứ nhất, tình trạng ta đang lâm vào ở ngoài tầm kiểm soát của ta vì ta không thể làm cho những chiếc xe khác biến mất được; thứ hai, tình trạng này không thể dự đoán được, vì ta không thể biết lúc nào thì sự giao thông lại trôi chảy như bình thường. Thế thì, thay vì ngập chìm trong lo lắng về việc bị trễ hẹn hay lầm bầm nguyền rủa hoiàn cảnh, hãy chấp nhận rằng ta sẽ dành ra một chút thời gian trong xe. Bạn không thể thay đổi tình trạng kẹt xe, nhưng bạn có thể thay đổi được thái độ của mình!
2. Hãy lên kế hoạch sử dụng thời gian đi lại một cách hợp lý. Ta biết rằng thông thường ta sẽ bỏ ra một khoảng thời gian nhất định để đi lại, vậy tại sao ta không sử dụng nó một cách có mục đích? Thay vì để cho mình bị mất tập trung với những điều vô nghĩa, bạn hãy quyết định trước những gì bạn sẽ làm gì trong thời gian đó. Có thể bạn nên tải xuống và nghe một số bài nói chuyện trên các phương tiện truyền thông về việc sống trong chánh niệm hay nghe lại một bài giảng trong giáo trình của mình. Nếu bạn có mặt trên phương tiện giao thông công cộng, bạn có thể chuẩn bị để đọc một tác phẩm văn học hoặc xem một bộ phim trên máy điện thoại di động.
3. Nếu có mặt trên phương tiện giao thông công cộng, hãy quan sát và ghi nhận những cảm giác đang diễn ra trong cơ thể. Chẳng hạn, nếu đang đứng trên xe buýt, bạn có thể nhận thấy các cơ bắp ở chân đang căng cứng như thế nào; bạn hãy tìm cách tạo sự thư giãn để có thể giữ thăng bằng lâu dài. Điều này rất hữu ích vì nó cung cấp cho những suy nghĩ của chúng ta một điểm dừng; thay vì cứ nghiền ngẫm các chủ đề căng thẳng, gây thêm lo lắng khi ta nghĩ ngợi vẩn vơ.
4. Tỉnh táo nhận biết bất cứ điều gì đang xuất hiện trên đường đi của bạn. Nhận biết màu sắc của những chiếc xe ở chung quanh hay những khuôn mặt của mọi người; nhận diện những suy nghĩ và phản ứng cảm xúc của ta khi chúng phát sinh. Bạn có thể trau dồi khả năng này chỉ bằng cách quan sát và chú ý tới những suy nghĩ, cảm xúc, và kinh nghiệm giác quan, mà không để chúng bị nhiễu loạn bởi bất kỳ sự phán xét hay chỉ trích nào. Nhận biết những gì đang diễn ra trong tâm bạn trước tình huống hiện tại; thăm dò cách bạn phản ứng về mặt tình cảm và thể chất khi bạn cứ nghĩ về nó. Bạn có thể sử dụng chiến lược này khi giao thông đang bị đình trệ trong giây lát.
5. Cư xử với những người xung quanh bằng thái độ thân thiện. Đúng vậy, ngay cả khi họ đang cố gắng vượt lên trước xe của bạn. Nếu bạn đang lái xe, bạn có thể nhường cho xe khác vượt lên. Nếu bạn đang ở trên phương tiện giao thông công cộng, bạn có thể nhường chỗ ngồi cho người khác. Điều này cũng hữu ích bởi một vài lý do. Trước tiên, ta không còn cảm thấy chỉ có riêng mình bị ảnh hưởng. Việc kẹt đường tác động đến tất cả mọi người, chứ không chỉ mình bạn. Khi nhìn nhận rằng tất cả mọi người đều đang cùng trải qua một điều gì đó tệ hại, người ta có thể đến gần với nhau hơn để đối phó với tình trạng đó một cách tích cực. Nếu ta nghĩ, “thằng cha đó cản đường mình” ta sẽ cảm thấy giận dữ. Nhưng nếu ta nghĩ, “chuyện này thực sự làm ai cũng mệt mỏi” ta sẽ thông cảm với những người cùng chịu cảnh kẹt xe như mình. Thứ hai, ta sẽ cảm thấy dễ chịu hơn khi ta có hành vi tử tế, bất kể người khác hành xử thế nào. Nếu thật sự trung thực với chính mình, ta sẽ thấy chẳng hay ho gì khi lúc nào cũng giận dữ hay phiền muộn. Người ta có thể bào chữa cho những phản ứng tiêu cực của họ, nhưng cuối cùng, điều đó chỉ hủy hoại sức khỏe thế chất và tình cảm của chính mình
6. Hãy hít thở trước khi bấm còi! Trong khi lái xe, hầu như người ta thường bấm còi lúc nổi giận chứ không chỉ đơn giản là một thông điệp “Này, cho tôi vượt mặt bạn nhé!”  Vậy nên, khi bạn thấy mình chuẩn bị bấm còi để lưu ý một ai đó, hãy dành ra một vài phút để hít thở thật sâu rồi ghi nhận sự căng thẳng và giận dữ mà bạn đang dồn nén trong cơ thể. Về mặt lý trí, bạn biết rằng việc bấm còi sẽ không làm cho bạn cảm thấy dễ chịu hơn chút nào; chẳng những thế, thật ra nó còn có thể làm phiền những tài xế khác. Vì vậy, thay vì “xả” cơn giận ra hay “nén” nó lại, bạn hãy quan sát sự thể hiện của nó trong cơ thể mình. Điều này có thể rất khó khăn, nhưng rất bõ công thực tập.
7. Chỉ tập trung vào việc lái xe hoặc đi xe mà thôi. Khi còn là một thiếu niên, có thể người ta lái xe chỉ để lái xe, để cảm thấy sự bùng nổ của tốc độ khi nhấn ga, để dự đoán sự biến động trên làn đường, để ngả xe khi vào các khúc cua v.v. Nhưng nay, hãy cố gắng chú tâm vào việc lái xe. Đôi khi, những điều khiến ta xao lãng trong lúc lái xe lại rất mơ hồ. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nói chuyện điện thoại hoặc nhắn tin trong khi lái xe làm tăng nguy cơ tai nạn. Trong lúc lái xe, ta chỉ có thể lắng nghe điều gì đó một cách thụ động, như khi nghe tin qua đài phát thanh hay nghe một bài nói chuyện nào đó chẳng hạn. Ngược lại, những hành động đòi hỏi phản ứng sẽ khiến ta mất sự chú ý cần thiết cho việc lái xe. Nếu ta đang có mặt trên phương tiện giao thông công cộng, việc tập thiền một chút cũng là điều hay.
Tham khảo: Honk if you love mindfulness! Ten tips for mindful commuting by Jonathan S. Kaplan, Ph.D.
http://phattriencanhan.org/

Wednesday, August 24, 2011

Vũ trụ “vô thủy vô chung”



Lý thuyết vũ trụ mới này cho rằng từng có một vũ trụ trước vụ nổ lớn và sẽ lại có một vũ trụ khác sinh ra sau khi cái hiện tại kết thúc. Nói cách khác vũ trụ là bất tận về mặt thời gian.
Roger Penrose và Vahe Gurzadyan tìm cách chứng minh về một vũ trụ tự hủy diệt và tái sinh theo chu kỳ, bằng cách quan sát bức xạ nền vi sóng vũ trụ.
Vũ trụ ’vô thủy vô chung’ - Tin180.com (Ảnh 1)
Trong khi Stephen Hawking cho ra đời “Đại thiết kế”, The Grand Design, với lý thuyết M rằng vũ trụ của ta không phải duy nhất, rằng có những vũ trụ tồn tại song song. Một nhà vật lý học người Anh nổi tiếng khác cũng làm giật mình với thuyết vũ trụ tái sinh.
Penrose, được phong tước hiệp sĩ vào năm 1994 nhờ những đóng góp cho khoa học, hồi tháng 9 đã xuất bản cuốn sách Chu kỳ của thời gian (The Cycles of time), trong đó ông giả thiết từng có một vũ trụ trước vụ nổ lớn và sẽ lại có một vũ trụ khác sinh ra sau khi cái hiện tại kết thúc. Nói cách khác vũ trụ là bất tận về mặt thời gian.
Trong một nghiên cứu mới nhất vẫn chưa được in nhưng đã công bố trên websiteArxiv, Penrose và đồng nghiệp người Armenia cho rằng họ tìm thấy những vết tích của vũ trụ cổ đại trong bức xạ nền, lặp đi lặp lại theo tính cách chu kỳ. Đó là những “vành đai” bao quanh các cụm ngân hà, với các biến số thấp bất thường trong bức xạ nền.
Penrose và cộng sự đã nghiên cứu 11.000 địa điểm, tập trung vào những di chỉ của quá khứ, nơi các ngân hà cổ từng va chạm vào nhau, các lỗ đen khổng lồ từng sát nhập, để sau cùng chốt lại 12 ứng cử viên.
Sở dĩ họ chỉ đăng trên website mà chưa in là chờ phản ứng của các đồng nghiệp. Và quả thật ngay sau đó vào đầu tháng 12 đã có ba phân tích phản bác: một từ Viện Vật lý vũ trụ Canada, Toronto, một từ Trường đại học British Columbia, Vancouver và một từ Trường đại học Oslo, Na Uy. Họ đều cho rằng cái mà Penrose tìm ra chỉ là (tái) minh chứng bức xạ nền có một cấu trúc nhất định.
Sở dĩ đề xuất của Penrose gây phản ứng như vậy là vì nó mâu thuẫn với thuyết giãn nở vũ trụ. Thuyết này cho rằng vũ trụ bắt đầu từ một điểm duy nhất và giãn nở mãi mãi.
Penrose tiếp tục tung luận cứ lên mạng, rằng các vòng tròn của ông có một đặc tính là tập trung một chỗ chứ không phải nằm rải rác tùy tiện. Thuyết giãn nở không thể giải thích được điều này.
Penrose không có tôn giáo và tự cho mình là vô thần, nhưng trong bộ phim về Hawking Lược sử thời gian, ông từng phát biểu: “Tôi cho rằng vũ trụ có một mục đích, nó không hiện hữu một cách tình cờ… nhiều người cho rằng vũ trụ hiện hữu cho có và con người bỗng dưng xuất hiện giữa hỗn mang. Không có ích lợi khi bạn nghĩ về vũ trụ theo cách như vậy, phải có một cái gì đó sâu sắc hơn về nó”.
Từng chia đôi một giải thưởng uy tín với Hawking vào năm 1988, giải vật lý của Hiệp hội Wolf, lần này Penrose lại chia đôi “búa rìu dư luận”. Nhưng không phải ông không có đồng minh.
Shaun Cole thuộc nhóm vi tính vũ trụ của Trường đại học Durham cho rằng nghiên cứu này thật ấn tượng. Ông nói với BBC: “Đó là một lý thuyết cách mạng và xem ra có căn cứ hẳn hoi. Trong mô hình vụ nổ lớn chuẩn chẳng có gì luân hồi cả; chỉ có bắt đầu, không có kết thúc. Câu hỏi triết học đặt ra là cái gì có trước vụ nổ lớn và họ đã loại bỏ câu hỏi đó bằng cách trả lời “chả có khỉ khô gì cả”, vì họ đã cho nó cứ lặp đi lặp lại mãi”.
Cả Penrose lẫn Cole đều cho rằng ý tưởng cần được kiểm chứng bằng những phân tích sâu hơn nữa, và đặc biệt mong chờ các dữ liệu từ kính viễn vọng Planck, được thiết kế để nghiên cứu bức xạ nền vi sóng với độ chính xác chưa từng có.
Hãy chờ xem thuyết vũ trụ “vô thủy vô chung” của Penrose sẽ thay thế Big bang hay không.

Xá lị – Một bí ẩn chưa được khám phá


Đó là những hạt tinh thể với đủ màu sắc, long lanh như ngọc, rắn như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy. Chúng được tìm thấy trong đống tro tàn sau khi hỏa thiêu hài cốt của một nhà tu hành nào đó.
Tin180.com_349
Xá lị là từ ngữ phiên âm tiếng Phạn: sarira – nghĩa đen là “những hạt cứng”. Theo ghi chép trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã mang xác của ngài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện thấy trong phần tro còn lại có lẫn rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Nó được đặt tên là xá lị, được coi là một bảo vật đặc biệt quý hiếm của Phật giáo.
Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo cũng như nghiên cứu của các nhà khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại xá lị, chẳng hạn như:
Tháng 12/1990, một vị cao tăng là Hoằng Huyền Pháp Sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt cứng, hạt to cỡ như hạt đỗ tương, hạt nhỏ cỡ bằng hạt gạo, trông gần như trong suốt và tỏa sáng lấp lánh như những hạt kim cương. Sau khi phân tích, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng, đó chính là thứ gọi là xá lị.
Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn – ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được tiến hành nghi thức hỏa táng theo tâm nguyện của ngài, trong phần tro còn lại người ta phát hiện được tới 11.000 hạt xá lị, đạt kỷ lục thế giới từ trước đến nay về những trường hợp xá lị được ghi nhận một cách chính thức.
Viên xá lị có thể to như quả trứng vịt, đó là trường hợp của Pháp sư Khoan Năng, vị chủ trì Tây Sơn Tẩy Thạch Am ở huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ngày 27/9/1989, ngài viên tịch thọ 93 tuổi. Sau khi hỏa thiêu người ta tìm thấy trong tro hài cốt 3 viên xá lị màu xanh lục, trong suốt, đường kính mỗi viên lên tới 3 – 4cm, tựa như những viên ngọc lục bảo.
Lại có một số trường hợp, xá lị chính là một bộ phận nào đó của cơ thể không bị thiêu cháy. Tháng 6/1994, Pháp sư Viên Chiếu 93 tuổi, chủ trì chùa Pháp Hoa, ở núi Quan Âm, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, trong một buổi giảng kinh tối đã nói với các đệ tử là: Ta sẽ để lại trái tim cho chúng sinh. Sau đó vị sư này ngồi kiết già và siêu nhiên viên tịch.
Theo đúng pháp quy của nhà chùa, các đệ tử đặt thi thể bà lên một phiến đá xanh, xếp củi chung quanh và tiến hành hỏa hóa. Lửa cháy sáng rực suốt một ngày một đêm. Trong đống tro nguội, các đệ tử thu được 100 viên xá lị to nhỏ khác nhau. Có viên thì hình tròn (xá lị tử), có viên lại nở xòe ra như những bông hoa (xá lị hoa). Những bông xá lị hoa trông rất đẹp, lóng lánh như những bông hoa tuyết, chung quanh còn được giát bằng những hạt xá lị nhỏ cỡ hạt gạo, sắc đỏ, vàng, lam, nâu… hết sức kỳ diệu. Nhưng điều kỳ diệu hơn cả là trái tim của bà không hề bị thiêu cháy. Sau khi ngọn lửa tắt trái tim vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên xá lị lớn, màu nâu thẫm. Khoảng 100 đệ tử có mặt trong lễ hỏa táng đã tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ lùng đó. Theo kể lại, Pháp sư Viên Chiếu là người từ bi, tính tình điềm đạm và ôn hòa, thường ngày bà chỉ ăn rất ít. Chùa Pháp Hoa đã cho người mang những viên xá lị đó đến giao lại cho Hội Phật giáo tỉnh Thiểm Tây.
(theo diendan.eva)

Nghiên cứu phương Tây về luân hồi: Sức mạnh của sự thật


Hơn 40 năm trước, thôi miên hồi quy (hypnotic regression) đã được sử dụng phổ biến bởi các học giả phương Tây để phục vụ nghiên cứu về luân hồi. Sau đó, liệu pháp tiền kiếp (past-life therapy) đã vận dụng khái niệm luân hồi vào trị liệu và bổ sung cho phương pháp thôi miên hồi quy. Khía cạnh đáng kinh ngạc nhất của liệu pháp tiền kiếp chính là các triệu chứng của bệnh nhân có thể biến mất một cách bí ẩn sau khi bệnh nhân “thấy” được tiền kiếp của chính họ.
Trong cuốn sách "Many Lives, Many Masters", Tiến sĩ Brian Weiss đã kể về một người phụ nữ tên là Katherine, người đã phải chịu đựng đủ loại chứng ám ảnh và u sầu trong nhiều năm. Khi bà trải qua một cuộc thôi miên hồi quy, bà thấy rằng mình đã từng là một cô gái trẻ tên là Alonda, người đã chết trong một trận lụt bất ngờ. Ngôi làng của cô đã hoàn toàn bị phá hủy. "Những cơn sóng dữ tợn ập vào các hàng cây. Không còn nơi nào để chạy nữa. Trời rất lạnh. Nước càng lạnh hơn. Tôi muốn cứu con tôi, nhưng tất cả những gì tôi có thể làm chỉ là ôm nó thật chặt vào lòng. Tôi trầm xuống và bị nhấn chìm bởi dòng nước. Tôi không thể thở." Thật khó tin, sau khi áp dụng phương pháp trị liệu này, các triệu chứng như nghẹt thở và tuyệt vọng của Katherine đã biến mất. Đây là một trường hợp có thật được ghi chép. Thành công này đã khiến Tiến sĩ Weiss, từ một người không tin trở thành người tin tưởng mạnh mẽ vào luân hồi.
thoimien
"Pursue the Past and Cherish Today", một cuốn sách khác được viết bởi Tiến sĩ Weiss, đã kể lại một câu chuyện khác. Jack là một viên phi công dày dạn, có trách nhiệm và đáng tin cậy. Tuy nhiên, anh luôn cảm thấy giận dữ và tính nóng nảy này cuối cùng khiến anh dễ phát hỏa như một cái núi lửa. Anh không thể chịu đựng nổi gia đình và đã bỏ rơi họ. Anh cũng phải chịu đựng đủ nỗi ám ảnh khó giải thích. Hàng ngày, vào mỗi buổi sáng, khi vận hành chiếc máy bay, anh thường nhìn ra ngoài cửa sổ một cách lo lắng để chắc chắn rằng cánh bên phải của báy bay vẫn còn ở đó. Ngoài ra, anh thức dậy vào mỗi buổi sáng với nỗi sợ rằng những chiếc cánh máy bay có thể rơi ra. Với sự trợ giúp của liệu pháp thôi miên hồi quy, anh đã khám phá ra rằng anh từng là một phi công thuộc lực lượng không quân Đức Quốc Xã trong chiến tranh thế giới thứ II. Cánh bên phải chiếc máy bay của anh đã bị trúng hỏa lực, và anh đã chết khi máy bay lao xuống đất. Anh đã cảm thấy nhẹ nhõm sau khi tìm được căn nguyên của sự phẫn nộ vô cớ mà anh phải chịu đựng trong đời này. Chứng ám ảnh của anh cũng biến mất hai tuần sau đó.
Một trường hợp khác được Tiến sĩ Weiss nhắc đến liên quan đến một bệnh nhân tên là Donna, người đã cải thiện hành vi đạo đức sau khi học được một bài học trong khi được thôi miên hồi quy. Donna thường cảm thấy khó chịu nơi cổ họng, như thể bà đang bị bóp cổ. Thêm vào đó, bà cũng hay bị viêm đường hô hấp. Tồi tệ hơn hữa, Donna dần dần bị mất giọng. Trong khi trị liệu, bà đã thấy được tiền kiếp của mình tại nước Italia thời Phục Hưng. Bà biết được một bí mật quan trọng và đã bị mưu sát để bí mật không bao giờ được tiết lộ cho công chúng. Trong kiếp này, bà thấy rằng nếu bà không nói sự thật, họng của bà sẽ bị ép chặt, gây ra đau đớn, thậm chí tới mức đe dọa tính mạng bà. Trong một kiếp sống khác, bà đã từng là một phụ nữ trẻ sống trên một hòn đảo giữa Thái Bình Dương. Bà đam mê cuồng nhiệt điệu nhảy của người bản xứ. Một ngày nọ, đống lửa trại bất ngờ lan ra khi bà đang nhảy múa. Vì quá mê nhảy nên bà đã quên mất phải nói cho những người khác biết về đám cháy. Toàn bộ lạc của bà đã biến mất sau vụ tai nạn này. Một trong những nạn nhân sau đó đã trở thành mẹ của bà trong kiếp này, người luôn ngược đãi bà từ khi còn nhỏ. Sau khi nhớ lại những điều này, Donna thấy rằng chứng tắc thở của bà đã thuyên giảm và và bà cũng có một hiểu biết sâu sắc hơn đối với mẹ mình. Donna cũng nhận ra rằng bà nên nói ra sự thật trong mọi tình huống, và nếu bà giấu giếm chúng thì hậu quả sẽ thật tệ hại.
Những trường hợp tương tự có rất nhiều. Đa số là về các bệnh nhân mà sau khi hồi tưởng lại tiền kiếp, họ trở nên hạnh phúc và an hòa hơn. Sẽ dễ dàng hơn cho họ để đối mặt với khó khăn và cải thiện quan hệ giữa người với người. Họ trở nên độc lập, vui vẻ và thích giúp đỡ người khác hơn. Điều này đã chứng tỏ rằng nhiều bệnh nhân, sau khi nhớ lại tiền kiếp, đã cải biến nội tâm và có cái nhìn tích cực hơn về cuộc sống. Họ trở nên khoan dung và tốt bụng hơn.
Bản tính con người là lương thiện và khoan dung. Tuy nhiên, sống trong thùng thuốc nhuộm lớn là xã hội người thường, con người đang dần dần rời xa tính thiện lương và đánh mất chính họ. Họ đang ngày càng chịu ảnh hưởng của những quan niệm được hình thành sau khi sinh ra và tin vào những gì mà con mắt thịt có thể thấy. Do đó, họ ngày càng khó thấy được bản chất của sự vật và hình thức tồn tại thực sự của vật chất. Những ai bị quan niệm hậu thiên gây trở ngại thường bài xích mọi thứ để bảo vệ nhận thức cố chấp của mình. Tuy nhiên, bản tính con người là thiện lương và nó chỉ bị che lấp giữa những khổ nạn và tranh đấu tàn khốc nơi trần thế này. Mỗi khi có cơ hội nhận thức chân tướng, phần thiện niệm chôn sâu trong nội tâm họ sẽ được kích hoạt, và sẽ phát sinh sự biến hóa về bản chất trong nội tâm họ.
Các bệnh nhân được đề cập ở trên đã tìm thấy căn nguyên những nỗi sợ hãi và giận dữ của họ, cũng như nguồn gốc sự ngược đãi và bệnh tật mà họ có trong đời này, để từ đó trở nên khoan dung và tốt bụng hơn. Cuộc sống của họ đã trở nên có ý nghĩa hơn nhờ những thay đổi tích cực từ chính nội tâm họ. Từ đó có thể thấy sự thật có sức mạnh thức tỉnh con người triệt để như thế nào.
Tác giả: Tử Quân
(theo Chanhkien.org)

Thực vật nhận biết được anh chị em ruột của chúng


Không hề hư cấu khi nói rằng các cây là anh chị em ruột – sinh trưởng từ các hạt giống của cùng một cây – có thể nhận ra nhau và đối xử với nhau tốt hơn là các cây không có quan hệ họ hàng, hoặc “những kẻ lạ mặt” khác. Hiện tượng nhận ra họ hàng ở thực vật này đã được nhận thấy trong các nghiên cứu khoa học.
Thực vật nhận biết được anh chị em ruột của chúng - Tin180.com (Ảnh 1)
Khi các cây là anh chị em ruột lớn lên ở cạnh nhau, lá của chúng thường chạm và bện vào nhau, trong khi các cây xa lạ mọc thẳng lên và không chạm vào cây khác. (sxc.hu)
Trong một nghiên cứu từ năm 2007, Tiến sĩ Susan Dudley, thuộc trường Đại học McMaster ở Canada, đã cho thấy sự cạnh tranh giữa thực vật với nhau. Theo phát hiện của bà (có tại địa chỉ http://rsbl.royalsocietypublishing.org/content/3/4/435.full ), khi một cái cây buộc phải chia sẻ một chiếc bình với các cái cây cùng loài khác, nó trở nên cạnh tranh một cách dữ dội và tăng cường phát triển bộ rễ. Tuy nhiên, khi hàng xóm của nó là một cái cây anh chị em ruột – tức là một cái cây từ cùng một cây mẹ – chúng không cạnh tranh với nhau.
Trong một nghiên cứu khác được đăng trong Tạp chí Thực vật học Hoa Kỳ, Tiến sĩ Dudley và Tiến sĩ Guillermo Murphy, cũng thuộc trường Đại học McMaster, đã phát hiện ra rằng khi các cái cây hàng xóm là họ hàng, loài Impatiens pallida có xu hướng phát triển dài thân và phân cành để có thể lấy được nhiều ánh sáng hơn mà không che mất những người họ hàng ở bên cạnh. Nhưng khi hàng xóm của chúng là những kẻ lạ mặt, chúng có xu hướng chuyển nhiều tài nguyên hơn từ bộ rễ sang lá, và sinh ra nhiều lá lớn hơn để có thể tận hưởng nguồn ánh sáng hữu hạn và đồng thời tác động tiêu cực đến những cây hàng xóm bằng cách che khuất chúng.
Một nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại trường Đại học đã phát hiện ra rằng những cái cây lạ được trồng bên cạnh nhau thường mọc thấp hơn vì rất nhiều năng lượng của chúng được đưa xuống để phát triển bộ rễ. Mặt khác, các cây anh chị em ruột không cạnh tranh lẫn nhau, và bộ rễ của chúng thường nông hơn nhiều. Thêm vào đó, khi các cây anh chị em ruột mọc cạnh nhau, lá của chúng thường chạm và đan xen vào nhau, nhưng các cây lạ mặt khác thì mọc thẳng lên và tránh chạm vào nhau.
"Có thể là khi các cây họ hàng được trồng cùng nhau, chúng có thể cân bằng việc hấp thu chất dinh dưỡng và không tham lam", Tiến sĩ Harsh Bais, tác giả chính của nghiên cứu này nói trong một thông cáo báo chí. Các nhà nghiên cứu cho rằng việc nhận ra họ hàng là có thể nhờ các tín hiệu hóa học mà rễ cây tiết ra.
Vào tháng 6 năm 2009, Tiến sĩ Richard Karban thuộc trường Đại học Davis California đã công bố nghiên cứu của ông, trong đó chỉ ra rằng các cây sagebrushkhông chỉ nhận ra "các cây sinh sản vô tính" của chúng – các cành giâm có gene di truyền giống hệt nhau được trồng ở bên cạnh – chúng thậm chí có thể thông báo nguy hiểm cho nhau.
Khi các cây sagebrush bị động vật ăn cỏ làm tổn hại, chúng phát ra các tín hiệu dễ bay hơi để cảnh báo cho đồng loại của mình về nguy hiểm sắp xảy ra. Các cành giâm có gene di truyền giống hệt nhau trong vòng 60 cm cách cây hàng xóm được cắt ra để thí nghiệm ở trong vườn, sau khi tiếp nhận các hóa chất được tiết ra đó, đã tự làm cho mình trở nên ít bị ăn hơn bởi các động vật ăn cỏ.
Tác giả: Rakefet Tavor
(theo Chanhkien.org)

Cùng bậc thầy thế giới định nghĩa lại nhân tài


“Lắm tài, nhiều tật” - chân dung của “nhân tài” thường được vẽ như vậy từ hàng trăm năm nay, mặc nhiên bao hàm cả yếu tố “tài” và “tật”. Tuy nhiên, với “Lý thuyết Nhân tài 3C”, Dave Ulrich - người được coi là “bộ óc” số 1 thế giới về nhân sự - đã vẽ lại một cách hoàn hảo chân dung người tài của thời đại mới.

Hai người cùng làm trong một công ty, người thứ nhất giỏi, làm được rất nhiều việc nhưng cũng “phá” rất nhiều thứ; người thứ hai năng lực bình thường, tạo ra giá trị ở mức bình thường nhưng “phá” ít, thậm chí làm ra được cái gì là chắc chắn cái đó. Người thứ hai chắc chắn không phải là người tài, song nếu coi người thứ nhất là người tài thì cũng chưa thỏa đáng vì mặc dù anh ta giỏi nhưng giá trị tạo ra từ sự giỏi đó nhiều khi lại không bằng người bình thường kia, có khi lại còn âm.

Tư tưởng và học thuyết của Dave Ulrich - Giáo sư Đại học Michigan (Hoa Kỳ) - về nhân lực, nhân tài, trong đó đặc biệt là “Lý thuyết Nhân tài 3C” (3C Talent Formula) đang được áp dụng phổ biến trên khắp thế giới, tỏ ra khả dụng đối với các tổ chức trong việc phát hiện “người giỏi”, từ đó bồi dưỡng, vun đắp họ thành “người tài”, mang lại giá trị cao cho tổ chức, xã hội.  

Giỏi chưa hẳn đã tài!

Lâu nay chúng ta thường quan niệm “giỏi” và “tài” là một cặp song hành, gắn kết khăng khít với nhau. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của Dave Ulrich, “giỏi” mới chỉ là điều kiện cần, một người muốn trở thành “nhân tài” thực thụ thì còn phải hội đủ nhiều yếu tố khác.

Một “người giỏi” sẽ không thể là “người tài” khi cái “giỏi” đó là trời phú và chỉ nằm im ở dạng tiềm năng, không được trưng dụng để tạo ra giá trị. Nghĩa là, một người cho dù thông minh, có tố chất đến mấy đi chăng nữa nhưng không chịu làm hoặc không biết cách làm thì vẫn bị coi là không có giá trị.

Ngược lại, cũng có những người giỏi, như trường hợp đã nêu ở đầu bài, tạo ra nhiều giá trị nhưng cũng gây ra không ít hệ lụy, phiền toái thì cũng không thể gọi là “nhân tài”, là “nguyên khí” của tổ chức được.   



- Nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới trong lĩnh vực phát triển nhân lực (Tạp chí HR 2010)
- Giải Nobel Colloquia dành cho những tên tuổi dẫn dắt nền tư tưởng kinh tế và kinh doanh (2010)
- Nhà giáo dục quản trị và là “bộ óc” quản trị số 1 thế giới (Business Week, 2001)
- Một trong 05 nhà cố vấn quản trị hàng đầu thế giới (Tạp chí Forbes, 2000)
- Một trong 10 nhà tư tưởng sáng tạo nhất thế giới (theo Fast Company, 2005).
Đánh thức nhân tài bằng “Lý thuyết Nhân tài 3C”
“Lý thuyết Nhân tài 3C” (Talent = Competence*Commitment*Contribution / Nhân tài = Năng lực*Cam kết*Cống hiến) được Dave Ulrich xây dựng sau khi khảo sát, nghiên cứu trên hàng nghìn doanh nghiệp, trong đó có hơn một nửa số công ty trong danh sách Fortune 500 (được coi là những công ty tinh hoa nhất toàn cầu); phỏng vấn hơn 40.000 nhân sự được coi là “người tài” trên khắp thế giới.

Năng lực (Competence)

Một nhân sự được cho là có năng lực khi anh ta có kiến thức, kĩ năng và giá trị phù hợp với công việc của hôm nay và nhất là trong tương lai. Năng lực liên quan tới 3 “đúng”: kỹ năng đúng, vị trí đúng và công việc đúng.

Có 4 bước để xác định và phát triển năng lực: 

1. Thiết lập một lý thuyết hoặc chuẩn mực (những
năng lực hiện tại về xã hội và kỹ thuật mà công ty mình
đang có là gì? Công ty đang phải đối mặt với những thay
đổi về môi trường kinh doanh như thế nào và đã có
những chiến lược gì để đối phó? Dựa vào môi trường
tương lai và những lựa chọn về chiến lược, nhân viên
cần phải thể hiện mình có những năng lực về kỹ thuật,
xã hội nào?); 

2. Đánh giá cá nhân và tập thể (khi đã có chuẩn mực, các nhân viên sẽ được đánh giá về những gì họ đạt hoặc không đạt được. Trong những năm gần đây, đánh giá nhân tài đã bắt đầu dựa trên cả kết quả công việc và cách thức hành xử); 

3. Phát triển nhân tài (Bộ công cụ “6B” gồm Mua - Buying: tuyển dụng, tìm nguồn cung và gắn chặt tài năng mới vào tổ chức; Xây dựng - Building: phát triển nhân viên thông qua việc huấn luyện, công việc thực tế hoặc kinh nghiệm sống; Vay mượn - Borrowing: Đưa kiến thức vào tổ chức thông qua qua các chuyên gia tư vấn hoặc đối tác; Ràng buộc - Bounding: Bổ nhiệm đúng người vào những vị trí quan trọng; Cắt giảm - Bouncing: Loại bỏ những nhân sự thừa, yếu kém; Kết tinh - Binding: Giữ chân nhân tài).

4. Theo dõi và phát hiện, phát triển năng lực (Người tài ngoài việc được đánh giá thông qua lượng tiền họ tạo ra cho công ty thì còn được đánh giá thông qua khả năng tạo ra những người tài).

“Nhân tài phải là những người có khả năng làm tốt những công việc của ngày hôm nay và đặc biệt là của tương lai. Sẽ hết sức sai lầm nếu chỉ so sánh thành tích của quá khứ để xác định ai là nhân tài, mà phải nhìn về phía trước xem ở tương lai tổ chức mình sẽ cần những con người như thế nào,” Dave Ulrich đặc biệt nhấn mạnh.

Cam kết - Commitment

Năng lực là không đủ nếu thiếu cam kết! Cam kết có nghĩa là nhân viên sẵn sàng cống hiến hết mình cho sự thành công của công ty. Trên thực tế, có những người rất giỏi, thông minh, thạo việc nhưng do không “chịu làm” hoặc làm không hết mình nên rút cục họ không tạo ra giá trị, đóng góp gì.

Theo Dave Ulrich, nhân viên thường sẽ “hết mình” khi họ “tạo ra giá trị cho tổ chức thì cũng sẽ nhận được những giá trị từ tổ chức”. “Giá trị” đó có thể là: 

1. Tầm nhìn: Mục tiêu, hướng đi; 
2. Cơ hội: Khả năng trưởng thành, phát triển và học hỏi; 
3. Ưu đãi: Lương, thưởng hợp lý; 
4. Tác động: Có thể thấy được thành quả hoặc hiệu quả công việc; 
5. Cộng đồng: Đồng nghiệp, quản lý và lãnh đạo - những người xây dựng nên cộng đồng; 
6. Truyền thông: Luôn biết chuyện gì đang diễn ra và tại sao; 
7. Sự linh hoạt - Môi trường làm việc: Được trao quyền lựa chọn và linh hoạt trong điều kiện làm việc.

Cống hiến - Contribution

Trước đây, khi đánh giá người tài thường ta chỉ dừng lại ở 2 yếu tố: năng lực (có khả năng làm việc) và cam kết (có ý chí làm việc). Tuy nhiên, với thế hệ nhân lực hiện nay và tương lai, chừng đó là chưa đủ, người tài còn phải là người biết cống hiến và được ghi nhận. Nghĩa là họ còn phải ý thức được ý nghĩa và mục đích của công việc mình làm, thậm chí, như Dave Ulrich nhấn mạnh, họ còn cần có được sự “thăng hoa”, sự “viên mãn” trong cuộc sống và công việc.

Điều đó sẽ đạt được khi cùng với tổ chức, cá nhân trả lời được 7 câu hỏi sau: 

1. Tôi là ai? (người lao động hiểu được mình và vị trí, vai trò, trách nhiệm… của mình trong tổ chức); 
2. Tôi sẽ đi đến đâu và tại sao? (tổ chức giúp được gì cho người lao động để họ đạt đến mục tiêu của mình); 
3. Tôi sẽ đi với ai? (tổ chức xây dựng nhóm hỗ trợ như thế nào để người lao động không cảm thấy đơn độc); 
4. Làm thế nào để tôi rèn luyện về tinh thần? (tổ chức hành xử như thế nào đối với các chuẩn mực tinh thần như sự khiêm tốn, tinh thần phục vụ, sự tha thứ, lòng biết ơn…); 
5. Những thử thách nào mà tôi sẽ vượt qua? (tổ chức giúp người lao động làm thế nào để vượt qua những thử thách một cách dễ dàng, đầy hào hứng và thú vị); 
6. Làm thế nào để tôi có thể tiếp cận với các nguồn lực? (tổ chức giúp người lao động giải quyết những vấn đề về sức khỏe, không gian và các nhu cầu tài chính); 
7. Nguồn cảm hứng của tôi là gì? (tổ chức sẽ làm gì để giúp người lao động luôn cảm thấy thoải mái, vui vẻ).

Trong “phương trình 3C” như đã nêu trên, 3 biến được kết nối với nhau theo cấp số nhân, chứ không phải cấp số cộng. Nghĩa là, nếu một biến nào đó bị mất đi, 2 biến còn lại sẽ không thể thay thế được. Chẳng hạn, người có năng lực kém sẽ không bao giờ là “nhân tài” kể cả khi anh ta có sự cống hiến và hết mình, và ngược lại. 

Nói cách khác, nhân tài phải có kỹ năng, ý chímục đích và phải thể hiện qua được việc, hết mìnhcống hiến.

Để khép lại công trình rất có ý nghĩa nhưng lại được trình bày một cách đơn giản, dễ tiếp cận, Dave Ulrich ví von khi nghĩ về nhân tài và phát triển nhân tài thì phải nghĩ đến cả cái đầu (năng lực), bàn tayđôi chân (chịu làm) và trái tim (sự viên mãn, thăng hoa, cống hiến). Chứ nếu nghĩ nhân tài, theo cách truyền thống, chỉ là “người giỏi” thì không đủ và đã quá lạc hậu.